Hiển thị các bài đăng có nhãn Irene. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Irene. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012

CHIỀU QUÊ.

                      Irene.


          Có một lần trên chuyến tàu xuôi về Nam. Buổi chiều, bên cửa sổ, tôi phóng tầm mắt nhìn ra xa. Những cánh đồng lúa xanh rì, dòng sông uốn lượn, những mái nhà khuất sau lũy tre xanh, hàng cau, núi đồi… Bất chợt trong khung cảnh đó có một làn khói lam nhẹ bay lên rồi cuộn vào không trung. Khói lam lan tỏa ra từ các mái nhà tranh giữa một khoảng không gian rộng bao la. Khói lam tạo cho cảnh vật một sự sống động nhẹ nhàng trong cái bảng lảng của chiều quê. Cảnh chiều về, làm cho tôi nhớ nhung tha thiết đến thắt cả lòng. Vùng ký ức như được trỗi dậy, thảng thốt với những hoài niệm xưa cũ nơi quê nhà…
          Lúc còn rất bé, cứ vào dịp hè, chị em tôi thường lên nhà vợ chồng thằng em con ông chú trong họ ở cầu Bà Di chơi. Nói là em vì vai vế bà con chứ thật ra nó lớn tuổi hơn chúng tôi nhiều! Nhà vợ chồng nó chỉ là một ngôi nhà thuê. Phía trước mặt là cánh đồng rộng bát ngát, xa xa là con đê, dòng sông và chiếc cầu tre...
 Từ bé đến lớn ở thành phố, nay được về đồng quê nên chị em chúng tôi thích lắm! Suốt ngày ba chị em tha hồ chạy nhảy. Lúc thì đi ra cánh đồng phía trước xem cảnh gặt lúa. Khi thì đi vào trong xóm chơi. Có khi theo thằng em đi bắt cá, bắt cua…Riêng tôi, tôi thường thơ thẩn ngắm cảnh đồng ruộng, dòng sông. Cảnh Mặt Trời lên, cảnh buổi trưa yên ắng hay cảnh chiều về. Thế nhưng cảnh chiều về đã để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất!
          Không gì đẹp và yên bình của vùng quê khi Mặt Trời đã khuất sau dãy núi! Không khí lúc này dịu dần. Từng cơn gió thổi từ xa đưa lại thoang thoảng  mùi thơm của hương lúa chín. Gió chiều đùa giỡn trên những cánh đồng rồi đuổi nhau tạo thành những gợn sóng xô chạy ra xa tít về cuối chân trời. Bầu trời quang đãng. Từng đàn chim  nhịp nhàng tung cánh rủ nhau bay về tổ. Giữa không trung, những cánh diều tung tăng bay lượn theo chiều gió. Tiếng sáo diều vi vu nghe êm êm. Trên đường làng, các mục đồng thong thả từng bước dẫn trâu bò về chuồng… Dưới ruộng, các bác nông dân vội vàng làm nốt cho xong công việc. Trên những mái nhà, khói lam chiều là là bay lên như một tấm lụa mỏng mềm mại, uốn lượn rồi lan tỏa hay quyện vào nhau tạo thành một mảng màu lam như ôm ấp, như quyến luyến, như bịn rịn như gọi mọi người quay về nhà, về bên mái ấm gia đình, sau một ngày vất vả, bận rộn với công việc.
Chiều dần dần trôi, thoang thoảng trong gió mùi ngai ngái của rơm rạ, mùi bùn đất của đồng quê quen thuộc…Hoàng hôn buông xuống. Cuối chân trời xa, một màu tím nhạt hình rẽ quạt hắt chéo lên một góc trời. Bức tranh chiều về ở nông thôn với những mảng màu dịu mát đẹp nhẹ nhàng và thanh bình.
          Có những hôm, bất chợt có một cơn mưa rào nào đó. Thì cảnh đồng quê như khởi sắc, tươi tắn hẳn lên! Đồng lúa, cây cỏ, mọi vật… như được tắm gội sạch sẽ và không khí trở nên mát mẻ dễ chịu.
          Đứng trước khung cảnh chiều về giữa một cánh đồng lúa bao la, tâm hồn tôi như được hòa vào cùng với thiên nhiên và cũng từ đó tôi yêu cảnh chiều về! Chiều về làm cho tâm hồn tôi như lắng lại dịu dàng, yên vui đến bất ngờ!
          Chiều ơi! Lúc chiều về là lúc yên vui. Qua đường mòn ngửi lúa thơm ngơi, ới chiều. Chiều ơi! Chiều ơi! Chiều ơi!..”(Nương Chiều-Phạm Duy)
          Sau này, khi tôi đã là cô giáo. Ra trường, tôi đổi về một vùng quê dạy học. Thời gian này quê hương không yên bình như những năm trước đây, vì lúc đó chiến tranh bùng phát dữ dội! Thế nhưng ở vùng quê ấy, mỗi khi chiều về, tôi vẫn tìm được cho mình một khoảng lặng êm ả của tâm hồn.
 Tôi rất thích ra phía sau nhà  ngắm cảnh chiều về. Buổi chiều, Bồng Sơn thường trở về với một vẻ yên tĩnh đến lạ thường, đến nỗi tôi có cảm giác như có một cái gì đó đang trầm lắng xuống thêm một chút nữa trong cái thị trấn luôn ì ầm với tiếng súng, tiếng bom đạn. Mà cũng lạ thật đó nghen! Cứ mỗi khi chiều về là hình như chiến sự có vẻ lắng lại. Hai bên ngừng tiếng súng! Quê nhà chiều về có vẻ yên ắng hơn so với những thời khắc khác trong ngày. Cũng có thể cả ngày hai bên chiến đấu mệt mỏi nên lúc chiều về nghỉ ngơi một chút chăng???
 Buổi chiều trên sông Lại Giang thật êm đềm và cũng thật là hiền hòa. Dòng nước lững lờ trôi một cách phẳng lặng. Mặt nước phản ánh cảnh mây trời. Chiếc đò của ai gác mái đứng chơ vơ bên hàng lau lách… Trong màn sương mỏng mờ mờ, nhìn qua bên kia sông, những hàng dừa lặng lẽ xỏa bóng, những lũy tre như đang từ từ xanh sẫm lại. Những mái nhà tranh tỏa khói bếp chiều. Những làn khói lam mỏng manh uốn lượn, bay lên rồi vẩn vơ vương lại từng chùm quanh quẩn bên những hàng cây hay là đà quyện vào với núi đồi. Trong mây trời, non nước bao la, chiều như nhẹ nhàng bước khẽ. Khung cảnh thật đẹp, thật nên thơ! Đâu đây man mác vương vương một nỗi buồn. Làm cho tôi nhớ nhà đến mềm cả lòng!
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây,
Ngỡ lòng mình là rừng,
Ngỡ hồn mình là mây…(Chiều-Hồ Dzếnh)
Cảnh chiều về ở Trung Lương-Phụ Đức đẹp và buồn đến “mụ mẫm” cả người. Chiều về nắng nhạt dần trên những khóm cây. Trên con đường vào làng, tiếng gió thổi xào xạc qua hàng tre xanh hai bên đường. Tiếng chim ríu rít trong những cây bòng đang gọi nhau rồi cất canh bay về tổ ấm…  Khuất sau những vườn cây, làn khói bếp từ những mái nhà tranh đang cuộn bò nhẹ rồi tỏa lan vương vấn bảng lảng trong chiều. Thanh bình và êm ả quá!
Không gian sẫm dần lại trong màu tím của hoàng hôn. Trong không gian trầm lắng đó, một tiếng chuông của ngôi chùa trong làng ngân vang như kéo hồn mình thoát tục…Thật hiếm có cái khoảnh khắc nào như thế! Ta như tìm cho tâm hồn mình những giây phút thanh thản, yên bình ở một nơi được mệnh danh là “tận đầu hỏa tuyến”. Tôi bỗng nhớ lại một bài hát mà tôi rất thích :
Có một lần tôi về qua nơi đó, tiếng chuông chùa ngân báo tin đêm về. Tôi gặp bà mẹ quê, dìu tôi theo lối về, rặng tre thưa dưới đê…” (Đêm này nghỉ đỡ chân-Tuấn Khanh).
Chiều về, luôn làm cho tôi bình yên và hình ảnh khói lam trong chiều luôn gợi cho tôi một sự đoàn tụ gia đình ấm áp, bên bữa cơm chiều đơn sơ, ấm cúng sau những bộn bề, vất vả, lo toan. Hình ảnh khói lam chiều còn làm cho tâm hồn tôi như trở về lại với những gì thân thuộc và được sống những tháng ngày vui vẻ bên gia đình thân yêu .
Thời gian trôi, tôi về làm dâu An Vinh-Tây Sơn. Bây giờ thì chiến tranh đã chấm dứt! Làng quê rất yên bình nhưng người dân quê  lúc này rất nghèo và rất vất vả.
“…Ruộng khô có những ông già rách vai. Cuốc đất bên đàn trẻ gầy. Có người bừa thay trâu cày…” (Quê nghèo-Phạm Duy)
Một năm tôi về quê vài lần. An Vinh nằm bên bờ sông Côn trong xanh hiền hòa. Mùa hè nước trong như lọc. Mỗi khi chiều xuống lung linh vạt nắng cuối ngày trên mặt nước huyền ảo. Bác lái đò gác mái trở về nhà để lại con đò nằm lặng yên trên bến đậu. Dòng sông này, đã để lại trong tôi bao kỷ niệm êm đềm bên người mẹ già tảo tần, vất vả hôm sớm và những người dân quê nghèo khó, những họ hàng làng xóm chân chất thật thà ...
Tôi thường đứng trước hiên nhà ngắm cảnh chiều về. Tiếng hót của con chim chiền chiện trên cành cây nhãn sau nhà như lọt thỏm và rơi vào không gian tĩnh mịch. Những con chim khác cũng vội vã ríu rít rủ nhau bay về tổ như mang cả chiều đi. Vạt ngô xanh tươi trong vườn khẽ lay động theo gió chiều. Dưới ruộng rau muống, mẹ chồng tôi đang lom khom cắt rồi bó thành từng bó để sớm mai đi cho kịp chợ phiên. Chiếc áo nâu sờn ôm lấy đôi bờ vai gầy gầy của mẹ. Nón trắng nhấp nhô theo với đôi bàn tay gân guốc chai sạn vì công việc ruộng đồng.
Bước ra phía trước, cả một cánh đồng lúa chín vàng trĩu hạt thoang thoảng đưa hương. Trên con đường làng, hai bên hàng tre vắt ngang qua xào xạc theo gió. Những người nông dân gầy guộc trong manh áo cộc vác cuốc, vác cày trở về! Những mục đồng lùa đàn trâu bò cũng đang lục đục kéo nhau về chuồng, tiếng rục mõ khua vang... Mùi bùn đất rơm rạ bốc lên sau cái nắng oi bức của ngày hè. Khói bếp tỏa lên từ các mái nhà tranh trong xóm. Khói lam chiều như ôm ấp lấy xóm làng như dòng sông bạc hiền hòa giữa không gian tím thẫm của hoàng hôn.
Tuy cuộc sống rất vất vả nhưng khi chiều xuống, mọi người vứt bỏ sau lưng bao lo toan để trở về bên mái ấm gia đình, bên mâm cơm chiều đầy ắp tiếng cười.
Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm chạy dài trên khóm tre, đàn chim ríu rít ca. Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm… (Chiều Quê – Hoàng Quý).
Chiều về! Trong lòng tôi luôn có cái cảm giác êm đềm, an vui, cuộc sống trở nên bình yên và thanh thản.
Tôi như say say trong nhập nhoạng của chạng vạng. Mơ mơ màng màng trong cái hương nồng nhừa nhựa của cây cối,
  Trong nhà, mẹ chồng tôi đã chuẩn bị bữa cơm chiều. Mâm cơm rau mắm. Rất đơn sơ và đạm bạc! Dưới ngọn đèn dầu, mọi người ngồi quây quần bên nhau ăn uống, chuyện trò vui vẻ trong không khí yên bình đầy tình thương yêu. 
Ngoài vườn, những mảng tối dần dần tiến đến rồi lan nhanh. Bóng tối như một lớp bụi mờ, đen dần phủ đều lên mọi vật. Trong những lùm cây Dạ lý, cây bưởi… nàng hương đang rón rén bước ra. Tiếng ễnh ương, tiếng dế, tiếng côn trùng…hòa vào nhau tạo nên một dàn đồng ca cho những cô nàng đom đóm say sưa trong vũ khúc đón chào đêm xuống!
Chiều về! Bao giờ cũng tạo cho tâm hồn tôi nhiều cảm xúc đẹp! Tôi yêu những gì xung quanh nơi quê hương tôi như dòng sông, bến nước, con đò, cánh đồng lúa, con đê, cây đa, mái nhà tranh, lũy tre...xóm làng. Ở đó, là quần tụ của những người thân thuộc, của những họ hàng, làng xóm… những người quanh năm tay lấm chân bùn nhưng họ sống với nhau trong tình làng nghĩa xóm.
Chiều về, Tôi như tìm lại được tuổi thơ tôi. Một thời thơ ấu hồn nhiên, vô tư, trong trẻo…Không vướng bận với những lo toan, muộn phiền…
Chiều về! Tôi như tìm được cho mình một khoảng bình yên cân bằng trong tâm hồn sau những gì xảy đến với tôi làm cho tôi cảm thấy ít nhiều chông chênh trong cuộc sống.
Bây giờ tôi đã bước vào tuổi xế chiều! Một giai đoạn tôi cho là đẹp và bình lặng nhất của một đời người. Theo tôi, bây giờ tôi như cảnh chiều về. Yên bình nhưng luôn mang nỗi buồn hoài niệm. Tuổi về chiều, tôi bỏ lại phía sau tất cả những bon chen vất vả của cuộc sống để sum vầy bên con, bên cháu, bên những người thân. Rồi sống an lạc, thanh thản và hạnh phúc.
Sài Gòn chiều nay mưa. Cơn mưa trái mùa kéo qua thành phố. Mỗi lần mưa, tôi rất thích đến bên cửa sổ nhìn ra vườn sau. Ngắm những cây ổi, cây xoài, cây bưởi… cành lá sũng nước. Từ trong các bụi chuối, những con gà đang ẩn nấp kêu “chiếp! chiếp!”. Trên mái nhà bếp một làn khói lam bay lên! Hình ảnh làm cho tôi gợi nhớ! Tự nhiên, tôi thấy tâm hồn mình trở nên bình yên, thanh thản đến nhẹ nhàng. Trong không gian vườn chiều như thoảng hương thơm. Mùi cây cỏ mục, mùi đất…rất quen thuộc! Không thể lẫn vào đâu được. Tôi chợt nhận ra rằng: Dù ở bất cứ đâu? Ở bất cứ miền nào trên quê hương mình? Tôi vẫn tìm thấy và nhận ra được lúc chiều về, một mùi vị rất quen thuộc đó là :
-          Mùi vị của chiều quê!

Sài Gòn, Tháng 12/2012.
Irene.

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

HOA HỒNG VÀNG CHO TÌNH BẠN.

                                             Irene.

         Tôi thường check mail lần cuối cùng trong ngày là vào lúc mười giờ đêm trước khi đi ngủ.
         Tối nay, chỉ vỏn vẹn một email của Đình Chúc gởi : Gặp mặt Phương Dung! Với nội dung là Phương Dung đang ở Sài Gòn muốn gặp mặt các bạn trong buổi sáng mai trước khi Dung về lại Bình Tuy vào buổi chiều…
         Phương Dung là cô bạn học của tôi suốt những năm liền ở trường Nữ Trung Học Quy Nhơn. Phải nói rằng mãi đến năm lớp mười một chúng tôi mới thân thiết nhau. Chúng tôi thường ngồi tâm sự hay hát cho nhau nghe. Phương Dung hát nhạc Trịnh rất hay! Tôi thích nhất là nghe Dung hát bài Còn tuổi nào cho em.
 Đậu Tú Tài, chúng tôi lại vào học Sư Phạm Quy Nhơn. Mới đây trong bức hình ở Bậc Tiểu Học đăng trong bài viết Ngôi Trường Mến Yêu, chúng tôi lại nhận ra nhau và biết rằng mình cũng đã từng học chung ở bậc Tiểu Học.
         Năm 1974, sau khi tốt nghiệp trường Sư Phạm chúng tôi lên đường đi dạy. Rồi biến cố lịch sử 75 đến! Mỗi người một phương cho đến nay, tôi chưa một lần nào gặp lại Phương Dung.
         Một hôm, trên trang blog spqn tình cờ chúng tôi biết tin tức của nhau. Rồi qua email chúng tôi thư từ qua lại và biết Phương Dung đang định cư tại Úc.
         Lần này Dung về Việt Nam thăm mẹ ở Bình Tuy. Dung điện thoại cho tôi. Chúng tôi quyết định sẽ gặp nhau một sáng Chủ Nhật nào đó? Thế mà hôm nay không phải Chủ nhật…
         Thật tình mà nói, tôi rất bận rộn! Tuy đã về hưu, đáng lẽ được nghỉ ngơi thì phải trông con bé cháu ngoại. Con bé chưa được một năm cho nên suốt ngày phải quanh quẩn bên nó. Chăm sóc, cho ăn, cho bú, tắm, ru ngủ… Nhiều lúc mệt vô cùng, định thuê người giúp việc nhưng nghĩ lại “Thương con, thương cháu” nên thôi!
         Suy nghĩ một lát, tôi vội trả lời thư : Các bạn cứ gặp nhau đi! Nếu sắp xếp được mình sẽ có mặt cả hai bà cháu.
         Trả lời xong, tôi đóng máy đi ngủ!
         Tôi trằn trọc mãi không ngủ được! Tôi tha thiết muốn gặp Phương Dung! Chia tay nhau lúc hai mươi tuổi. Gần bốn mươi năm sau mới gặp lại nhau! Bây giờ đứa nào cũng xấp xỉ sáu mươi, Đời người còn lại là bao? Không gặp lần này biết bao giờ gặp lại? Nhưng ngày mai không biết đi đến gặp các bạn như thế nào đây? Khi mà còn “kẹt” con cháu ngoại. Trong đầu tôi đưa ra nhiều cách giải quyết : - Hay là mình gởi nhờ cô Năm hàng xóm giữ hộ con bé? Nhưng mà ngày mai không biết cô ấy có rảnh không? Với lại con bé Kiwi nó có chịu cô ấy không? Thôi mình gọi ông xe ôm trong xóm chở hai bà cháu qua gặp Phương Dung một chút rồi ông ấy chở hai bà cháu về! Nhưng mà đi xe ôm giữa trưa nắng và bụi bặm của đường phố Sài Gòn, con bé chịu sao nỗi! v.v…và v.v…
         Sáng hôm sau, tôi dậy thật sớm! Cả đêm không ngủ được nên người mệt mỏi nhưng nghĩ đến gặp mặt bạn, tôi thấy phấn chấn hẳn lên!
          6giờ 30phút, tôi nhận được điện thoại của Đình Chúc báo địa điểm và thời gian gặp nhau. 7giờ, các con tôi đều đi làm. Tôi nhanh nhẹn cho cháu ăn, uống sữa và cho ngủ giấc sáng…Tôi sữa soạn mọi thứ vật dụng đem theo cho cháu bé. 9giờ rưỡi hai bà cháu leo lên taxi từ quận bảy qua quận tư đến quận một rồi quận Bình Thạnh…và đến nơi.
         Chúc ra tận nơi, Tay xách, đón hai bà cháu vào. Tính của Chúc là vậy! Rất nhiệt tình với bạn bè!
Gặp Phương Dung tôi mừng vô hạn. Trời ơi! bao nhiêu năm rồi bây giờ mới gặp, mới thấy mặt nhau! Cái nét trên khuôn mặt vẫn vậy! Nụ cười quen thuộc vẫn thế! Cảm động quá! Cũng may là còn khỏe mạnh để có ngày tao ngộ! Chứ có khi “vắn số” thì làm sao thấy lại nhau ở cái “cõi tạm” này? (Nói cho vui thế thôi! Chứ không đến nỗi bi lụy lắm đâu?)
         Tôi ngồi xuống, con cháu bé nó cũng ngồi yên để cho bà ngoại vui chuyện “trùng phùng” với bạn bè. Bây giờ tôi mới nhìn các bạn trong bàn : Phương Dung, Thanh Cảm, Xuân Đài, Đình Chúc, Huỳnh Kim Thạch, Phạm Thanh Hà rồi Nguyễn Ngọc Việt, Trần Đức Lượng, Thanh Bình.
         Chúng tôi hỏi thăm nhau. Chuyện trò rôm rả. Nói như chưa bao giờ được nói. Nhìn nhau như chưa bao giờ được nhìn và vui như chưa bao giờ được vui!
         Tôi cảm thấy ấm áp trong tình bạn bè. Tôi cảm thấy hạnh phúc vì bên mình có những người bạn chân thành.
         Phương Dung kể lại khoảng thời gian đi dạy sau 75…
Những lần đi học chính trị Hè, học căng thẳng nên mọi người đề nghị Phương Dung lên hát giúp vui. Mà lúc đó mấy ai biết được nhạc cách mạng mà nhạc trước đây thì bị cấm. Suy nghĩ hoài Dung hát bài Thảo Nguyên Xanh nhạc Nga lời Việt cho bản nhạc Sad Romance.
“…Thảo nguyên gió vẫn lay, hoa vẫn cười nhưng vắng người…còn đâu tuổi thơ êm đềm? Còn đâu thảo nguyên xanh?...”
Cả hội trường hoan hô vang dội. Có lẽ giọng ca mượt mà bay bỗng mà cũng có thể giúp mọi người giải tỏa sự căng thẳng của buổi học.
Một lần khác, người ta đề nghị Dung hát. Dung không biết hát bài hát nào? May sao Dung nhớ lại là cứ mỗi sáng cái loa phóng thanh trước nhà Dung cứ phát bài hát Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây thế là Dung hát:
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn. Hai đứa ở hai đầu xa thẳm. Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây…”
Cả hội trường lại vỗ tay khen ngợi! Nhưng hôm sau một anh cán bộ GD đến và bảo rằng giọng hát của Dung ủy mỵ quá!
Thế là Dung chuyển sang ngâm thơ không hát nữa?! Dung lại lên hội trường ngâm bài thơ Quê hương của Giang Nam. Cả hội trường như “chùng” xuống
“…Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
    Có những lần trốn học bị đòn roi
   Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
   Có một phần xương thịt của em tôi…”
         Vỡ òa ra theo cảm xúc của giọng ngâm. Cả hội trường vỗ tay tán thưởng không ngớt! Nhưng rồi vẫn có người đến phê bình giọng Dung. Từ đó, Dung lại chuyển sang hát Dân ca cho yên.
         Nghe Dung kể xong chúng tôi ai cũng nhớ lại những chuyện vui buồn của khoảng thời gian sau 75.
         Thấy không khí hơi trầm, Trần Đức Lượng kể một câu chuyện “vui” thế là mọi người lại vui cười hồn nhiên.
         Cô bạn Thanh Cảm của tôi lúc nào cũng ít nói và thường trầm ngâm lắng nghe. Thế nhưng lúc Lượng nói là cô nàng lại chăm chú dõi theo câu chuyện. Sau đó “chốt” vào một câu làm anh chàng “chưng hửng”. Thế đó, nhưng nếu cuộc gặp mặt nào mà không có hai bạn thì niềm vui giảm đi một nửa.
         Phạm Thanh Hà người bạn cùng khóa lần đầu tôi gặp cũng vui vẻ, hòa đồng.
         Huỳnh Kim Thạch luôn luôn là người bạn rất có tình, có tâm đối với bạn bè. Thỉnh thoảng cũng nhắc lại những kỷ niệm xưa. Thạch nhớ rất nhiều và nhớ rất rõ từng bạn học các lớp Sư phạm. Bạn ấy còn đọc vanh vách cả số điện thoại nữa kìa! Thế mới thấy bạn ấy rất trân quý bạn bè.
         Anh Hiệu trưởng Nguyễn Ngọc Việt ngồi thanh thản bên bạn bè. Hình như ở trường công việc làm bạn ấy “căng thẳng” nên gặp lại bạn bè niềm vui rạng ngời thấy rõ trên khuôn mặt bạn.
         Xuân Đài vẫn dễ thương với nụ cười xinh xinh, hình như bạn ấy chẳng “già” đi chút nào?
         Thanh Bình vẫn trẻ, vẫn duyên dáng hơi chút “điệu đàng” dưới con mắt của Trần Đức Lượng.
         Còn tôi thì khỏi phải nói các bạn cũng biết rồi! Bồng cháu ngoại chưa “thôi nôi”, mà dám vượt bao nhiêu cây số, bao nhiêu con đường giữa phố xá Sài Gòn đông đúc. Mệt “bở hơi tai” để đến gặp bạn bè!!!

         Chia tay các bạn ra về, tôi cứ ngùi ngùi xúc động! Tôi xin gởi đến các bạn bè tôi những bông hoa hồng vàng tươi thắm tượng trưng cho tình bạn để chuyển tải cảm xúc ấm áp, ngọt ngào này.
Màu vàng tươi thắm của hoa, tôi xin gởi đến bạn bè tôi một thông điệp của J. Churchil về tình bạn là :
         “Hãy đối xử với bạn bè như đối với một bức tranh, nghĩa là hãy đặt họ ở góc độ có nhiều ánh sáng nhất”

Sài Gòn. 28/11/2012.
Irene

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

KỶ NIỆM.

-->
                                                               Irene.

         Bây giờ, đã là tháng mười một. Ở cái đất phương Nam này những cơn mưa bắt đầu từ từ lẩn trốn nhường cho nắng vàng hanh hao và những cơn gió thoảng. Thỉnh thoảng cũng có một vài đám mây đi lạc bay ngang qua thành phố làm cho không khí ở đây bớt oi nồng.
         Tháng mười một thường làm cho tôi nhớ đến miền Trung thân yêu. Vào thời gian này, thời tiết ngoài đó đã bắt đầu chạm đông, báo hiệu bằng những cơn mưa to hay dai dẳng kéo dài…Tháng mười một cũng làm cho tôi nhớ về những kỷ niệm của một thời cắp sách rồi bồi hồi nhớ lại những ngôi trường, các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và các học sinh của tôi.
         Tôi không sao quên được những kỷ niệm về ngôi trường đầu tiên trong cuộc đời mình đó là trường Mẫu Giáo Quy Nhơn.
         

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2012

TIẾNG VĨ CẦM TRONG ĐÊM.

-->
                                             Irene.

         Tuổi học trò có hoa, có lá, có nắng và mây…Tuổi học trò trong trẻo hồn nhiên với những suy tư vu vơ…Ai cũng có một thời và chỉ có một thời như thế! Để được vui, được buồn, được giận, được hờn và có được những tình cảm trong sáng, tinh khôi của một thời áo trắng nhiều mộng mơ…
Thời thơ mộng nhất là thời Trung học. Cứ hằng năm khi mùa thu đến! Tôi lại ríu rít cùng các bạn rủ nhau đến trường. Dạo đó, chúng tôi gồm ba người bạn gái chơi với nhau rất thân. Chúng tôi học cùng trường, cùng lớp, nhà lại ở cùng một con đường. Ngày ngày dù mưa hay nắng, con đường Nguyễn Du cũng rộn rã tiếng cười nói đùa vui của ba chúng tôi.

Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2012

ĐÃ CÓ MỘT THỜI!


                                                                                    Irene

         Sau chuyến đi Đaøø Lt maáy ngaøy vôùi chò gaùi vaø gia ñình coâ con gaùi, toái hoâm qua toâi ñaõ trở lại Sài Gòn. Saùng nay thức dậy thoải mái tôi mở máy check mail. Bất ngờ trong số thư bạn bè, tôi nhận được thư của anh. Trong thư có đoạn anh viết như những lời tự sự kể lại một thời trai  trẻ của mình…

         Sáng nay, anh đến quán café khi sương đêm vẫn chưa tan hết. Anh chọn một chiếc bàn ngồi xuống nhìn ra Hồ Xuân Hương. Vừng đông lóe sáng, những rặng thông đứng lặng như vẫn còn lãng bãng trong sương.
         Đêm qua anh lại mất ngủ vì sự đến thăm của hai người em gái ca L. Cuoäc gaëp gôõ naøy đã làm sống dậy những kỷ niệm một thời xa xưa khi anh còn học ở trường Sư Phạm Qui Nhơn. Và rồi như những thước phim lần lượt quay chậm, đều đều,  hiện rõ quãng đời aáu thô vaø trai trẻ của mình….

Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2012

ĐÀ LẠT BÂY GIỜ


                            Irene


Năm năm rồi, bây giờ tôi mới trở lại Đà Lạt.
          Trước đây, tôi đã đến Đà Lạt nhiều lần, nhưng những lần trước, tôi đi từ Qui Nhơn đến Phan Rang-Tháp Chàm rẽ vào Quốc lộ 27 vượt đèo Sông Pha đến Đơn Dương qua đèo Prenn là đến Đà Lạt.
Lần này tôi đi từ hướng Sài Gòn lên Đà Lạt. Quãng đường dài khoảng 300km theo đường xe hơi, đi khoảng 6-7 tiếng đồng hồ. Qua hết đèo Lao Bảo là đã bắt đầu thấy không khí dìu dịu, trời nhiều mây, đất đỏ, đồi thông, hoa dã quỳ…đến đèo Prenn quanh co uốn lượn. Hai bên đường, trước mặt là những rừng thông xanh mướt tạo nên khí hậu mát mẻ. Mỗi lần đi qua lưng chừng đèo là tôi lại ngước nhìn ngôi biệt thự oan khốc nằm khuất sau những hàng thông trên đồi rồi tưởng tượng đến những cái chết trong ngôi nhà ma…và Thành Phố Đà Lạt xuất hiện trước mắt với những ngôi biệt thự, những ngôi nhà trên đồi, dưới đồi hay sau những hàng cây . Con đường vào Thành Phố hai bên những khóm tường vi, những hàng hoa hồng đủ màu tươi tắn. Con đường hoa hồng kéo dài từ đường 3 Tháng 4 chạy dài đến đường Hồ Tùng Mậu dẫn vào trung tâm Thành Phố.

Thứ Sáu, 5 tháng 10, 2012

THƯƠNG TÌNH CA.


                           Irene.

         Tiếng đàn guitar, tiếng hát của thằng cháu dìu dặt vang lên trong đêm :
         Dìu nhau đi trên phố vắng. Dìu nhau đi trong ánh sáng. Dắt hồn về giấc mơ vảng. Nhẹ nhàng dìu nhau đi chung một niềm thương… ( Thương Tình Ca – Phạm Duy )
         Lòng tôi như lắng đọng. Thật kỳ lạ! Cứ mỗi lần nghe giai điệu của bài hát này, tôi lại nhớ quay quắt đến những con người, đến những con đường thân quen ở Qui Nhơn : Gia Long, Võ Tánh, Phan Bội Châu, Cường Để, Tăng Bạt Hổ, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Lê Thánh Tôn…  vào những thập niên sáu mươi, bảy mươi và rồi hình ảnh chị tôi lại hiện rõ trong tôi.
         Chị tôi hơn tôi năm tuổi. Trong ba chị em kề nhau, chị là người nhỏ con nhất. Dáng người chị mảnh khảnh, thướt tha trong chiếc áo dài trắng. Chị đi nhẹ nhàng, uyển chuyển. Khi chị cất tiếng hát, đôi mắt của chị sáng long lanh thả hồn theo giai điệu làm cho giọng hát trở nên sâu lắng, mượt mà và lôi cuốn.

Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2012

NHỚ TRUNG THU XƯA !

                                    Irene.

Mưa vừa tạnh, bọn trẻ trong xóm đã vội vã kéo nhau ra đường tụm năm, tụm ba rước đèn Trung Thu…Con cháu bé mới lên ba cũng náo nức cầm đèn đòi ra ngoài chơi…
Trong đêm dưới ngọn đèn đường hiu hắt những chiếc lồng đèn xinh xinh đủ màu sắc rực rỡ. Đa số là những chiếc lồng đèn Trung Quốc chạy bằng pin, gọn nhẹ lại có tiếng nhạc nghe vui tai. Lồng đèn đủ mọi hình dáng từ những con thú như gà, thỏ, chuồn chuồn, bươm bướm…cho đến anh Tôn Ngộ Không hay anh siêu nhân…ánh sáng cũng đủ màu: đỏ, vàng, xanh, tím…chớp nháy liên tục. Thế nhưng bên cạnh những lồng đèn chạy bằng pin ấy, tôi vẫn thích ngắm những chiếc lồng đèn bằng giấy kiếng, thắp bằng đèn sáp của một nhóm trẻ đang đứng ở phía cuối con hẻm. Nhìn chiếc đèn ngôi sao, tôi bỗng nhớ đến tuổi thơ của mình.
Qui Nhơn những năm cuối thập kỷ 50 yên ổn và êm đềm. Tuổi thơ của tôi cũng trải qua nhẹ nhàng! Năm nào cũng vậy, cứ  vào khoảng tháng tám ta, gần đến Tết Trung Thu thì ba tôi lại ngồi chẻ những cây tre, vót thành những thanh dài ngâm vào nước cho mềm mại. Sau đó đạp xe lên phố Gia Long mua những tờ giấy kiếng đủ màu. Mẹ tôi thì lo lấy bột khuấy hồ dán. Ba tôi bắt tay vào việc làm lồng đèn. Ba cầm những thanh tre ngắm nghía, đo, cắt làm thành những thanh dài, ngắn rồi ráp thành cái khung lồng đèn…
Lúc đó tôi còn bé lắm! Tôi thường ngồi một bên xem. Tôi chỉ thấy ba tôi làm hai loại đèn đó là đèn ngôi sao và đèn bánh ú. Nhà tôi có ba chị em. Chị lớn tôi học lớp nhất, chị kề tôi lớp ba còn tôi thì đang học mẫu giáo. Vào những năm đó, Qui Nhơn chưa có điện. Đời sống cũng như hàng hóa còn rất đơn sơ. Hầu hết mọi người đều tự làm những vật dụng để phục vụ cho cuộc sống.
Khi đã có cái khung rồi, ba tôi cắt giấy kiếng để dán các mặt. Mẹ tôi thì phụ cắt. Dưới nền xi măng giữa nhà, hai người cặm cụi làm lồng đèn ròng rã suốt ngày. Khâu trang trí cũng mất một buổi. Ba tôi cắt mấy cái hoa dán ở các mặt, cắt giấy trang trí các đường diềm hay để làm những cái tua thòng xuống ở mỗi góc. Ba còn dùng thép để làm chỗ cắm đèn cầy, dùng thép để làm cái khoen móc cái cây để cầm… Xong đâu đó má tôi đem ra phơi nắng cho khô và giấy được căng thêm…
Năm nào cũng thế, chị lớn tôi là được ba làm cho chiếc đèn đẹp nhất, lớn nhất. Chị kề tôi là lồng đèn nhỏ hơn nhưng cũng đẹp còn tôi là cái lồng đèn nhỏ nhất. Thấy tôi phụng phịu ba tôi nói: - Con ở nhà chơi lồng đèn này là được rồi, mấy chị con đi học vì phải nộp lồng đèn để chấm điểm nên cần phải lấy cái đẹp… Tôi không nói gì nhưng cũng thấy buồn buồn …
Đêm Trung Thu, Mặt Trăng tròn to, sáng vằng vặc soi rõ khắp cả phố. Chị em tôi cùng với các bạn trong xóm đốt đèn. Những chiếc lồng đèn sáng lên, đủ màu vàng, đỏ, xanh …đẹp mắt. Người lớn bắc ghế ra ngồi trước hiên nhà xem con cái vui chơi. Thế nhưng trong xóm có nhiều gia đình nghèo nên không ít đứa trẻ chẳng có lồng đèn cứ chạy theo loanh quanh ngắm nghía … Một lát sau ba mẹ gọi chúng tôi, thế là cả bọn chạy đến. Quà cho chúng tôi chỉ là những viên kẹo lạc, kẹo cà…bánh in hay những trái ổi sẻ củ lang, củ mì…thế mà cả bọn trẻ vui mừng! Cùng nhau ăn ngon lành…Chúng tôi vừa ăn vừa rước đèn dưới trăng. Chỉ rước quanh quẩn đi lên đi xuống không dám đi xa… Có năm ba tôi bồng tôi và dẫn các chị tôi đi lên bây giờ là hội trường Quang Trung. Hồi xưa, nơi đây chỉ là khoảng đất xung quang nhấp nhô những mô đất ở giữa bằng phẳng để xem múa lân. Đó là lần đầu tiên tôi biết thế nào là múa lân! Một ông lân đầu lúc lắc gật lên, gật xuống, ngoắc qua, ngoắc lại, nghiêng qua bên này, nghiêng lại bên kia, nhảy lên, ngồi xuống…miệng hả ra rộng trống hoác, hai con mắt lồi ra trông rất dễ sợ. Tôi không dám nhìn cứ úp mặt vào người ba tôi. Rồi đến ông địa khuôn mặt bành ra cười cười, tay cầm cái quạt, quạt lia quạt lịa… mấy đứa nhỏ xung quanh khóc thét lên! Chị kề tôi cũng khóc đòi về! Thế là ba tôi dẫn chúng tôi về. Chị nói :
 - Ba ơi! Cái con gì mà đầu nó to, cái miệng rộng răng thì nhọn và lởm chởm. Nhà mình mà có con đó là con chết liền đó ba! Cả nhà cười ồ lên! Cái ấn tượng đó kéo dài và cho đến bây giờ, tôi chẳng bao giờ thiện cảm với khuôn mặt ông lân và ông địa…
Phải một thời gian sau này Qui Nhơn mới có bánh Trung Thu. Ba tôi lên tiệm Hóa Hưng ở đường Gia Long mua về, cắt ra cho cả nhà cùng ăn. Dạo đó, bánh nhỏ ít nhân chứ không lớn, nhân nhiều và đủ loại như bây giờ.
 Rồi Trung Thu qua đi, ba tôi lại treo những cái đèn lên một góc cao để dành cho năm sau.
Và cứ thế, mỗi năm khi tết Trung Thu đến ba mẹ tôi lại vẫn cứ cặm cụi làm những chiếc đèn cho con.Cho đến năm nào tôi không nhớ có lẽ khi các chị tôi đã lên bậc trung học còn tôi học lớp nhì hay lớp nhất gì đó và khi phố Gia Long bày bán những chiếc đèn thì Trung Thu. Năm đó, ba tôi ra phố mua về một chiếc đèn rất đẹp. Đó là chiếc lồng đèn hình con bươm bướm làm bằng tre. Hai cánh xòe ra, những đường vẽ cánh bướm rất đẹp lại thêm hai cái râu trên đầu rung rinh. Ban đêm thắp đèn lên màu sắc rất tuyệt…
Nhưng cũng từ đó, tôi không còn tìm lại được cái hình ảnh ba mẹ tôi bận rộn lo Trung Thu bên những nan tre để làm lồng đèn cho chúng tôi nữa!
Có một lần, ba tôi đi Sài Gòn về có mua một cái đèn. Ba nói với cả nhà đó là đèn kéo quân hay còn gọi là đèn cù. Tôi thấy chẳng đẹp vì nó giống như cái đèn măng-sông. Nhưng tối đến, khi ba tôi thắp nến lên treo ở giữa nhà. Cái đèn sáng rực lên và bên trong hiện lên mấy cái hình chuyển động xoay vòng vòng liên tục. Ngắm kỹ thì tôi thấy có hình con ngựa, hình người khiêng kiệu, hình các ông quan, hình các cô, các bà mặc áo tứ thân đội nón quai thao… thấy ngồ ngộ, lạ mắt vô cùng…
Mẹ tôi nói rằng, trong năm Mặt Trăng tháng tám là to và tròn nhất. Trung Thu lại là rằm tháng tám. Trăng lên cao, tròn và rất sáng. Trẻ em rước đèn dưới ánh trăng. Người lớn cũng ra sân ngồi uống nước nói chuyện ngắm trăng. Mẹ còn nói người ta thường ngắm trăng để dự đoán cho cuộc sống. Nếu trăng sáng vàng thì năm đó trúng mùa, trăng màu vàng cam thì đất nước yên vui thịnh trị nhưng nếu trăng có màu vàng xanh thì năm đó gặp nhiều thiên tai hạn hán, lũ lụt…
Riêng tôi mỗi lần nhìn trăng thì lại thấy một hình đen như hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc rồi cứ tưởng tượng đến chú Cuội với sự tích Chú Cuội trên cung trăng mà cô giáo thời Tiểu học đã kể và dù bây giờ biết rằng chẳng có chú Cuội nào cả nhưng cái ký ức đó nó cứ khắc sâu khó nhạt nhòa trong tâm trí.
Từ khi vào Sài Gòn đến giờ, chưa bao giờ tôi được ngắm Trăng đẹp và huyền ảo như ở Qui Nhơn. Vào những đêm trăng, khi hoàng hôn buông xuống, Mặt Trăng đã từ từ nhô lên trên dãy núi Phương Mai. Mặt Trăng tròn, to như quả bóng quét một vệt sáng vàng lấp lánh xuống một góc của mặt biển đang sẫm màu. Trời tối, trăng đã lên trên mặt biển, Trăng càng sáng soi rõ cả bãi cát, thấy rõ những chú dã tràng thập thò nơi miệng hang. Gió từ biển thổi vào mơn man đùa giỡn trên tóc. Tiếng sóng vỗ rì rầm hòa với tiếng réo gọi từ khơi xa tạo thành một bức tranh động đêm trăng trên biển đẹp tuyệt vời.
Trăng ở biển là thế! Đêm trăng ở vùng quê lại càng đẹp vô cùng. Nếu đến nông thôn vào một đêm trăng, tôi mới thấy Đêm sáng Trăng của Thạch Lam thật tuyệt vời.
Ngày chưa tắt hẳn, trăng đã lên rồi. Mặt trăng tròn, to và đỏ từ từ lên ở chân trời. Sau rặng tre đen của làng xa, mấy sợi mây còn vắt ngang qua, mỗi lúc một mảnh dần rồi đứt hẳn. Trên quãng đồng rộng, cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại, thoang thoảng mùi hương thơm ngát
Mưa bất ngờ ào xuống! Bọn trẻ tản mác ù chạy về nhà. Tôi cũng vội vã dẫn con cháu vào trong hiên. Mưa càng lúc càng nặng hạt, con bé buồn xo theo tôi vào phòng…
Ti vi phát ra bài hát Rước Đèn Tháng Tám quen thuộc:
Tết Trung Thu rước đèn đi chơi. Em rước đèn đi khắp phố phường. Lòng vui sướng với đèn trong tay. Em múa ca trong ánh trăng rằm. Đèn ông sao với đèn cá chép. Đèn thiên nga với đèn bươm bướm. Em rước đèn này đến Cung trăng…
 Giữa cuộc sống bộn bề công việc luôn hối hả với mưu sinh ai ai cũng bận rộn nên đến Trung Thu ai cũng cố gắng ghé qua một cửa tiệm nào đó mua cho con đầy đủ không những một mà hai, ba cái lồng đèn đắt tiền. Tuy chiếc đèn đẹp nhiều màu sắc, nhiều kiểu dáng rất đẹp, rất hiện đại những ngọn nến được thay thế bằng những ánh sáng lung linh huyền ảo. rồi quẳng cho chúng tha hồ chơi. Ghé một tiệm bánh mua vài hộp. Những cái bánh nướng bánh dẻo thơm ngon…về nhà bắt chúng ăn đến phát ngán đến nỗi thấy bánh Trung Thu là thấy sợ… Rất đầy đủ về vật chất nhưng hình như tuổi thơ của chúng vẫn thiêu thiếu! Có lẽ đó là khoảng trời và ông Trăng riêng dành cho tuổi thơ.
Những khi Trung Thu đến, dù ở bất cứ nơi đâu, trong tôi vẫn có những khoảng lặng rất êm đềm, nhẹ nhàng giúp tôi hoài niệm lại những ngày xưa thân thương và cân bằng những cảm xúc hiện tại để thấy cuộc sống này vẫn đáng yêu.
Mưa vẫn tí tách rơi đều đều trên mái. Bầu trời đen thẳm, Ông Trăng trốn đâu mất tiêu chỉ để lại nỗi buồn cho lũ trẻ không được hưởng một đêm Trung Thu trọn vẹn…

Sài Gòn, Trung Thu 2012
         Irene.

Thứ Hai, 24 tháng 9, 2012

TẢN MẠN VỀ HÀ NỘI.



                                     Irene.
        
Lúc còn bé, tôi đã rất thích Hà Nội qua những tác phẩm văn học :
…Trên đê Yên Phụ một buổi chiều mùa hạ. Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy…(Anh phải sống-Nhất Linh)
…Trời đông mưa phùn lấm tấm. Bên kia dãy nhà lá núp dưới chân đê Yên Phụ…nước Hồ Tây mù mịt, bát ngát mênh mông … chìm đắm trong cảnh sương mù buổi sáng.( Dưới bóng hoa đào-Khái Hưng-Nhất Linh).
         Dường như bàng bạc qua văn học đã ngấm vào trong tâm hồn tôi về Hà Nội với những hình ảnh đẹp và êm đềm: Cơn mưa phùn gió Bấc, con đê Yên Phụ, sông Nhị Hà, cái se se lạnh đầu đông với những chiếc lá bàng ngả sang sắc đỏ hay tiếng ve kêu râm ran báo hiệu hè về! Mùi hoa sữa nồng nàn, mùi cốm mới thơm thơm… Tôi đã tưởng tượng ra trước mắt một Hà Nội với Ba mươi sáu phố phường, với Hồ Gươm phẳng lặng in cảnh trời mây, Hồ Tây lãng đãng sương khói hay một phố cổ cũ xưa…Nghe đâu đây tiếng “leng keng” của tàu điện. Đường Cổ Ngư đón bước người về. Nghe thân quen các nơi như là Đống Đa – Cầu Giấy - Phố Quang Trung đường Nguyễn Du hoa sữa thơm nồng…
Rồi khi lớn lên, tôi bắt đầu thích Hà Nội qua các bài thơ :
         Tôi yêu những con đường Hà Nội
         Cuối năm cây cơm nguội lá vàng
         Những ngọn đèn thắp sáng lúc hoàng hôn
         Mái phố cũ nhấp nhô trong khói nhạt.
         … ( Những con đường tháng giêng-Xuân Quỳnh )
        
         Nhớ Tháp Rùa đứng nghiêng chờ nắng đổ
         Mặt Hồ Gươm phẳng lặng bóng chiều xiêu
        
         Nhớ Hồ Tây mưa phùn bay giăng phủ
         Bụi sương mờ lảng đảng bến bờ xa...
                               (Nhớ Hà Nội -Phố Đồng)
         Sau này khi đi dạy tôi lại thích lảng đảng cùng học sinh qua những bài giảng về Hà Nội  :
         Chiếc ô-tô-buýt chạy chậm dần rồi đỗ lại bên bờ Hồ Gươm. Hằng xuống xe rẽ về phố Bà Triệu. Chiều thu gió dìu dịu, hoa sữa thơm nồng. Chiều nào về đến đầu phố nhà mình Hằng cũng đều được hít thở mùi thơm quen thuộc ấy! Thật hiếm thấy một loài hoa nào có đủ sức tỏa hương cho cả một dãy phố dài hàng cây số như hoa sữa… Mùa hoa sữa - Mùa thu-Mùa khai trường …
Tuy không phải là người Hà Nội nhưng ai mà chẳng xao xuyến khi nghe những bài hát về mùa thu Hà Nội :
         Hà Nội mùa thu-cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thẫm nâu…(Nhớ mùa thu Hà Nội-TCS)
         Tháng tám mùa thu lá rơi vàng chưa nhỉ?Từ độ người đi thương nhớ âm thầm. Có phải em là mùa thu Hà Nội…(Có phải em là mùa thu Hà Nội-Trần Quang Lộc )
         Nhiều nhiều lắm! Những bài hát về Hà Nội, bài hát nào cũng nhẹ nhàng, sâu lắng gợi cho người nghe nhiều cảm xúc.
         Rồi đến giọng nói của người Hà Nội nghe nhè nhẹ và sâu lắng. Nếu người Hà Nội vào định cư Sài Gòn lâu thì giọng nói của họ pha một chút âm hưởng miền Nam, nghe lại càng dễ thương đến lạ lùng.
         Tôi người miền Trung, mỗi khi cất tiếng nói, sao toàn những thanh nặng! Lên bổng xuống trầm nghe mệt làm sao!!! Nên tôi lại thích giọng Bắc! Nhưng mà phải là giọng Hà Nội chính gốc. Tôi cũng có nhiều người bạn nói tiếng Hà Nội, giọng nói sao mà dịu trong, nhẹ nhàng trìu mến đến lạ thường. Mỗi khi bạn tôi cất lên tiếng nói nghe rất lôi cuốn! Âm thanh nhẹ, rõ ràng, ấm áp, êm dịu vô cùng.
         Có người nói rằng : Miền Nam có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, cây trái tốt tươi nên giọng nói của người Nam rất ngọt thoải mái và bộc bạch.
         Miền Trung thì nhấp nhô núi đồi nên giọng người miền Trung lúc nào cũng trầm bổng lên xuống tha thiết.
         Còn miền Bắc pha trộn địa hình núi đồi với đồng bằng, thời tiết tạo cho người ở đây một giọng nói ấm áp, dịu dàng và sâu lắng.
         Vẫn biết rằng, giọng nói mỗi vùng miền khác nhau, tiếng nói mỗi địa phương có một nét đặc sắc riêng, một vẻ đẹp riêng. Thế nhưng ở đâu đó, một nơi nào đó, một lúc nào đó…bất chợt nghe giọng nói Hà Nội cất lên, tôi thấy lòng mình ấm áp, thân thương, nhẹ nhàng và gần gũi.
        
         Cám ơn em thầm giọng nói
         Còn trong tuổi nguyệt tây Hồ
        
         Thầm cám ơn em giọng nói
         Lay hồn ta tỉnh trong mơ…
( Giọng Hà Nội xưa-Hoàng Song Linh)

         Nghe thơ, văn, nhạc ca tụng Hà Nội như thế! nhưng mãi đến những năm cuối của thập kỷ 80, tôi mới có dịp đến thăm. Đây là lần đầu tiên đến đất Hà Thành nên tôi rất háo hức!
          Bầu trời thu Hà Nội xanh lơ với nắng nhạt, từng cơn gió heo may nhè nhẹ, những con phố tràn ngập lá vàng… Mùa Thu với  những “gam màu”: Hồ Thu xanh trong - Màu vàng cây cơm nguội - Màu lá vàng chuyển sang đỏ của cây bàng - Màu ngói nâu thẫm - Màu xanh non của cốm mới - Màu xanh của cây sấu - Màu rêu của cửa ô …tạo nên một sắc thu thật dịu dàng đầy quyến rũ. Ở miền Trung và miền Nam chỉ thấy hai mùa mưa nắng nên thật thích khi gặp bầu trời bàng bạc mây thu của Hà Nội.
          Tôi và mấy người bạn cùng nhau đi dạo quanh những con đường xem phố phường, nhà cửa, chợ búa, thắng cảnh…Vào thời gian này Hà Nội vẫn còn yên tĩnh và ít người. Đường phố Hà Nội không ồn ào, không tấp nập hay đông đúc, nhộn nhịp như Sài Gòn. Hà Nội cũng không trầm trầm, lắng đọng như Huế. Hà Nội không uốn khúc quanh co hay lên xuống như Đà Lạt mù sương …mà Hà Nội có vẻ yên ắng…mang vẻ tĩnh lặng dễ thương đến xao xuyến lòng người. Có những buổi sáng sớm trong cái se sắt lành lạnh của thu về. Tôi đi chầm chậm trên những con đường ở Hà Nội. Không khí thật bình yên, tinh khôi lạ thường. Thoang thoảng đâu đây mùi ngọc lan rất nhẹ.
         Buổi sáng chúng tôi thường đi bộ ra Hồ Gươm rất sớm. Ngồi trên những chiếc ghế đá bên bờ hồ, hít thở không khí trong lành. Ngắm Tháp Rùa rêu phong in bóng xuống mặt hồ phẳng lặng mờ mờ trong sương. Đằng xa chiếc cầu Thê Húc cong cong màu đỏ. Tôi thấy tâm hồn mình thanh thản, bình yên đến kỳ lạ! Dường như thoát khỏi cảnh phù hoa, đô hội, lùi xa mọi ồn ào, đua chen của cuộc sống.
 Hà Nội có rất nhiều hồ! Đó là đặc trưng thuận lợi tạo ra màu xanh cho những cây cối trong công viên hay hàng cây dọc theo những con đường. Ngoài ra các hồ còn làm cho khí hậu ở đây mát mẻ, dễ chịu… 
         Một cơn gió thổi qua! Một vài chiếc lá bàng rơi rơi. Tôi bỗng liên tưởng đâu đây hình ảnh hai chị em đi nhặt lá bàng trong tác phẩm Đôi bạn của Nhất Linh.
         Cơn gió thổi… lá bàng rơi lác đác,
         Cùng rơi theo loạt nước đọng trên cành.
         Những cây khô đã chết cả màu xanh,
         Trong giây phút lạnh lùng, tê tái ấy. (Thế Lữ)
Buổi sáng, không khí ở đây rất trong lành. Nhiều người đến tập thể dục. Những người bán hàng rong cũng đã có mặt. Tôi ghé đến gánh bắp của một bà cụ quấn khăn mỏ quạ trên đầu mua một trái bắp nếp dẻo còn nóng hổi. Bà cụ với giọng Hà Nội nhè nhẹ, rót mời tôi một li nước râu bắp trong veo. Uống vào thấy ngòn ngọt thơm thơm. Tôi có cảm giác như mình được sống với những con người xưa Hà Nội.
         Phở Hà Nội cũng có một đặc trưng riêng. Bánh phở tươi, thịt mềm nước đậm đà. Không có rau thơm ăn kèm như miền Trung và miền Nam. Không có phục vụ nước uống. Ăn xong, kéo nhau ra hàng nước chè trước cửa tiệm. Lúc đầu thấy hơi phiền! Nhưng thấy ai cũng vậy nên riết rồi quen. Bà cụ mở vung nồi, nước bốc khói lên nghi ngút. Vừa uống vừa thổi, cũng vui!
          Đi dạo chợ Đồng Xuân mua sắm thì rất thích! Vì hàng hóa rất nhiều. Hàng hóa hay áo quần may sẵn của Trung Quốc tràn ngập khắp chợ mà giá lại rẻ hơn hàng Việt. Bây giờ thì ta tẩy chay hàng Trung Quốc chứ vào lúc đó, nhờ những hàng này đã giải quyết được rất nhiều nhu cầu cần thiết cho mọi người trong cuộc sống thiếu thốn thời bao cấp.
Thường chúng tôi ít ăn ở khách sạn theo đoàn mà thường ra ngoài ăn. Tôi ghé vào hàng ăn ở chợ Đồng Xuân. Món bánh cuốn chả quế, chả Bắc là món ăn ngon ở đây. Chả quế ở chợ Đồng Xuân rất thơm ngon, mùi quế rất dịu còn chả Bắc thì rất đậm đà. Có lúc lại thưởng thức một bát bún thang hay một bát bún mộc…
         Buổi chiều đi dạo quanh bờ hồ, có nhiều người gánh những đôi thúng đi bán cốm vòng. Cốm được gói trong những chiếc lá sen. Mùi của cốm quyện với mùi lá sen tạo nên hương vị thơm thơm ngòn ngọt.
 Dừng chân ghé lại Hồ Tây, ngắm cảnh trời mây và thưởng thức món bánh tôm nóng giòn tuy không đặc sắc lắm nhưng cũng thú vị …
         Những buổi sáng, đứng trước cửa khách sạn, tôi thích ngắm các cô gái gánh hoa rong ruỗi khắp phố phường Hà Nội. Ở mỗi gánh đủ các loại hoa, đủ các màu sắc từ các làng hoa tỏa ra các phố. Nhìn các cô tôi liên tưởng đến cô Liên trong Gánh Hàng Hoa của Khái Hưng - Nhất Linh.   
 Thật là thích thú khi ngắm các cô quảy gánh những chùm vải thiều Hưng Yên đỏ mọng tươi roi rói mới hái còn nguyên cành lá xanh. Đi bán dạo hay ngồi dọc khắp các hè phố. Ăn những quả vải giòn giòn mọng nước ngọt lịm thơm ngon.
Tôi tìm thấy ở người Hà Nội nhất là người lớn tuổi cách đối xử và nói năng của họ rất nhẹ nhàng, lịch sự. Họ sống trong những ngôi nhà yên ắng. Đặc biệt người Hà Nội rất thích hoa sen, bên bộ bàn ghế gỗ, khắc chạm xà cừ…giữa bàn cắm một bình hoa sen màu trắng hay hồng hương lan tỏa rất nhẹ. Ta có cảm giác như lạc vào một không gian xưa.

         Sau bao nhiêu năm tháng, bây giờ, tôi lại có dịp ra thăm Hà Nội. Tôi ngạc nhiên Hà Nội bây giờ thay đổi quá! Đường phố nào cũng đông đúc người, xe cộ ồn ào, nạn kẹt xe xảy ra rất phổ biến. Chợ tấp nập người mua, kẻ bán chẳng khác gì Sài Gòn. Tôi cố đi tìm lại những nét xưa cũ nhưng cái không gian êm ả, trầm trầm lắng đọng hình như biến mất. Cái chất thanh lịch của người Hà Thành cũng nhạt dần, cảm giác như không còn nữa!
         Ba Mươi Sáu phố phường, nay dường như phố cổ. Phố xá Hà Nội khác xưa nhiều lắm. Ngày nay, phố Hà Nội thật phong phú và đa dạng nào là phố Hai Bà Trưng là phố điện tử với những cửa hàng chưng bày các đồ điện tràn lan. Phố Phùng Khắc Hoan với những cửa hàng vải chất cao ngất. Phố Trần Nhân Tông với những áo quần thời trang may sẵn treo đầy. Ẩm thực thì phải nhắc đến phố Tống Duy Tân với những hàng ăn nổi tiếng khắp mọi miền đất nước. Nếu thích ăn hải sản thì đến phố Tô Hiến Thành….
         Tôi đến thăm làng hoa Ngọc Hà. Làng hoa còn đó nhưng diện tích bị thu hẹp lùi dần vào bên trong. Trên đường cái một dãy quán với bảng hiệu cầy tơ hay nai đồng quê…chiếm hầu hết. Thoáng chút buồn buồn luyến tiếc không gian êm đềm của “Gánh Hàng Hoa”.  
          Hà Nội hiện nay được quy hoạch và xây dựng mới. Nhiều công trình kiến trúc mọc lên. Những ngôi nhà đồ sộ cao ngất. Hà Nội được mở rộng ra đến ngoại thành. Xe cộ tấp nập, nườm nượp trên đường. Cái mới đẩy lùi cái cũ có nơi xóa hết dấu vết xưa. Không gian Hà Nội như thu hẹp lại bởi cái ngột ngạt nóng bức của khói xe và bụi bặm. Người mọi nơi đổ dồn về đây. Vì vậy, giọng nói cũng pha trộn nhiều vùng miền là không thể tránh khỏi. Cho nên tìm nghe một giọng Hà Nội chuẩn thì còn đâu đó ở những người lớn tuổi hay trong những gia đình ở Tràng An vẫn giữ nét xưa. Riêng đối với đa số giới trẻ hiện nay thì thật là hiếm hoi vô cùng.
         Cái mới cũng có cái hay, cái đẹp của một xã hội tiến bộ văn minh để theo kịp thời đại. Biết là vậy, nhưng vẫn phải ngậm ngùi, vẫn phải xót xa khi dần dần mai một đi những cái cũ. Rồi đến một ngày không còn tìm lại được cái thanh lịch của người Hà Nội hay cái không gian xưa và chợt nhận ra rằng Hà Nội một thời bây giờ sẽ chẳng còn đâu??? Tôi xin mượn những dòng thơ để diễn tả tiếc nuối về sự hoài cổ :
         Hà Nội giờ chỉ còn trong ký ức
         Cảnh mưa phùn gió bấc lạnh căm căm
        
         Nhớ Gánh Hàng Hoa trên đê Yên Phụ
         Đôi vai gầy ướt đẫm bụi sương mai
        
         Nhớ ba mươi sáu phố phường xưa cũ
         Cửa đóng then cài phong kín tường rêu
         Của một thời chỉ còn qua tên gọi
         Ký ức nhạt nhòa hiện thực còn đâu.
                                    (Nhớ Hà Nội-Phố Đồng)

Sài Gòn, tháng 9/2012
          Irene.


LinkWithin

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...