Thái Thị Diệu Tâm (K4)
Nghỉ hè năm 1965, theo lời rủ rê của cô bạn thời trung học, tôi thi vào trường Sư Phạm Quy Nhơn. Kỵ thi cũng không dễ dàng gì vì suốt một dãi miền trung từ Quảng Trị đến Khánh Hòa chỉ nhận có 300 giáo sinh. Tôi không tâm đắc lắm ( vì còn nuôi mộng Đại học) thì lại đậu, còn cô bạn kia rất tha thiết thì lại hỏng. Ba tôi không muốn tôi vào SP nhưng ông nội thì rất vui vì đó là nghề “truyền thống” của gia đình. Có duyên nhà giáo của tôi là vậy.
Sau khi vào học một thời gian, tôi đã có một niềm say mê thật sự. Tôi yêu nghề, yêu cái nghịch ngợm thơ ngây của học trò trong những buổi dạy ở trường SP thức hành.
Trường đầu tiên tôi đến dạy là một trường nhỏ thuộc Quảng Nam. Học sinh hiền lành chất phác, vì nghèo nên đã 14, 15 tuổi mới học lớp 5. Tôi yêu thương và hết lòng dạy dỗ các em. Các em cũng quý mến cô. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của nghề thầy. Tôi vui vì tôi đã chọn đúng nghề
Hai năm sau, tôi lập gia đình và xin chuyển về gần nhà. Tôi còn nhớ một kỉ niệm khó quên : Một lần tôi được chọn dạy mẫu cho các thầy cô ở các huyện lân cận về dự. Tôi hơi lo lắng vì số người về dự rất đông, nhưng tôi đã chuẩn bị chu đáo nên bình tĩnh lên lớp. Tiết dạy kết thúc trong tiếng vỗ tay vui mừng của bạn bè đồng nghiệp. Tôi còn nhớ lời nhận xét của bà thanh tra tiểu học :
_ Tâm là học sinh thời tiểu học của tôi, bây giờ được dự giờ dạy của Tâm với tư cách một thanh tra, tôi rất haì lòng. Tiết dạy rất hay, tôi khen mà không sợ cho là thiên vị. Cô thật hãnh diện vì con đó. Tâm ơi.
Các thầy cô về dự hôm đó cũng khen ngợi, chúc mừng. Hơn 40 năm qua nhưng niềm vui sướng và xúc động ấy vẫn còn đọng lại như một kí ức ngọt ngào mà tôi không bao giờ quên
Sau 1975, tôi không còn được đi dạy, tôi hụt hẫng vô cùng, nhưng tôi vẫn mưu sinh với nghề “gần gũi “ với nghề đã học :dạy kèm giữ trẻ
Tôi còn nhớ một lần đi xe đạp thồ.Ngồi phía sau, tôi nghe anh hỏi
_ Chị là cô giáo ?
_ Vâng, sao anh biết ? nhưng bây giờ tôi không còn đi dạy nữa.
_ Còn nhớ nghề không chị ?
_Nhớ chứ, nhớ như nghệ sĩ nhớ ánh đèn sân khấu. Đó là lòng yêu nghề phải không anh ?
Lúc xuống xe anh bắt tay tôi :” Tôi cũng là giáo viên,cũng không còn đi dạy nữa, nhìn chị tối biết ngay là giáo viên. Chúng ta vẫn là giáo viên mà chị
Đúng vậy, cuộc đời biết bao đổi thay dâu bể, nhưng tôi vẫn luôn suy nghĩ và làm theo những gì tôi được học dưới mái trường SP Quy Nhơn vì tôi vẫn là giáo viên …
Đà Nẵng tháng 9/ 2013
Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014
Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014
KÝ ỨC QUY NHƠN
Lê Trầm Thanh ( K9 )
Heo may vàng lá
Và em
Tóc thu
phai những sợi mềm nhiêu khê
Bâng khuâng nhớ nẻo xưa về
Mái trường Sư Phạm
Trăng thề Quy Nhơn
Sóng ôm Ghềnh Ráng dỗi hờn
Thơ Hàn
quyện khói thuốc vờn . Đêm say
Hoàng hôn vừa chạm chân mây
Giật mình.
Ngày ấy rời tay xa vời
Chỉ còn
Kí ức đầy vơi
Heo may vàng lá
Và em
Tóc thu
phai những sợi mềm nhiêu khê
Bâng khuâng nhớ nẻo xưa về
Mái trường Sư Phạm
Trăng thề Quy Nhơn
Sóng ôm Ghềnh Ráng dỗi hờn
Thơ Hàn
quyện khói thuốc vờn . Đêm say
Hoàng hôn vừa chạm chân mây
Giật mình.
Ngày ấy rời tay xa vời
Chỉ còn
Kí ức đầy vơi
Thứ Bảy, 12 tháng 4, 2014
TIẾNG CHUÔNG ...
“...Sinh nhật lần thứ sáu mươi với một điều ước: Có những ngày thật bình yên… Irene.”
Mặt Trời chầm chầm về phía tây, chiều dịu dàng xuống thấp. Một lát sau trăng đã gối đầu lên rặng cây phía xa. Thoáng chốc, trăng nhô dần lên khỏi những ngôi nhà cao tầng. Màn đêm từ từ xỏa nhẹ xuống hòa quyện cùng với màn sương mỏng trắng đục rồi từ từ sẫm lại.
Bây giờ trăng đã lên. Hôm nay rằm, Mặt Trăng tròn, tỏa ánh sáng vàng nhạt len lỏi qua từng cành cây, kẻ lá…Ánh trăng lướt nhẹ trên những vòm lá, trên những mái nhà, chảy dài xuống con đường đẩy lùi bóng tối và mỗi lúc ánh trăng càng chiếm lĩnh, làm cho ánh điện đường mờ dần, mờ dần. Cơn gió nhẹ từ xa đưa lại thoang thoảng mùi thơm của hương chanh, hương bưởi…ngòn ngọt. Trong không gian tĩnh mịch, yên ắng đó. Bỗng một tiếng chuông chùa từ đâu vọng lại làm cho cảnh đêm về càng thêm yên bình, thanh thoát, nhẹ nhàng…âm vang man mác, vấn vương một nỗi nhớ xa xăm.
Tuổi thơ của tôi đã được sống và lớn lên trong cảnh êm đềm, hiền hòa của thị xã Qui Nhơn. Tâm hồn tôi phơi phới, dạt dào tin yêu vào cuộc sống đầy mến thương này. Vào đầu những năm sáu mươi, Qui Nhơn là một vùng đất rất ít người. Nhà cửa thưa thớt, đơn sơ. Đường sá chưa mở ra nhiều còn ngổn ngang bởi toàn là những con đường đất… Nhà tôi ở, đối diện với Chợ Lớn. Xa hơn một chút xíu là Nhà Thờ Nhọn do người Pháp xây dựng. Phía dưới nữa là Khu Một và tận cùng là bến cảng. Nhìn lên hướng phía trên là chùa Long Khánh, núi Bà Hỏa. Phía sau nhà, nhìn ra xa là hàng dừa bãi cát cùng biển xanh mênh mông. Phía trước nhà hướng bắc, phóng xa tầm mắt là Đầm Thị Nại.
Thị xã yên ắng đến lạ thường! Đêm đêm, ở trong nhà có thể nghe rõ tiếng gió thổi vi vu qua hàng dương. Tiếng sóng biển vỗ ầm ì vào bãi cát. Có thể nghe rõ mồn một tiếng chuông công phu đêm từ chùa Long Khánh vọng lại và vào mỗi chiều thứ bảy hay sáng Chủ Nhật nghe vang vang rộn rã tiếng chuông Nhà Thờ… Một thời chưa có chiến tranh. Một thời thật yên bình!
Và rồi, cứ như thế không biết từ lúc nào? Tiếng chuông…trở nên gần gụi, quen thuộc, thân thương với tôi. Sau này khi lớn lên dù bất cứ ở nơi đâu hay đang làm gì mà nghe tiếng chuông, tôi cũng dừng lại im lặng lắng nghe và trong những giây phút đó, âm thanh tiếng chuông như hòa vào nhịp thở, làm cho tâm hồn tôi trở nên an vui, cuộc sống thêm rạng rỡ, tươi đẹp một cách diệu kỳ!
Từ lâu lắm, tôi đã thích giai điệu và lời bài hát Làng tôi của cố nhạc sĩ Văn Cao:
“ Làng tôi xanh bóng tre. Từng tiếng chuông ban chiều. Tiếng chuông Nhà Thờ rung…”
Thật là thích mỗi khi nghe tiếng chuông Nhà Thờ vang vang vào những ngày Thánh lễ, vào chiều thứ bảy hay sáng chủ nhật… Không làm sao quên được tiếng chuông vào mỗi dịp lễ Giáng Sinh, nghe âm thanh mà trong lòng dâng lên niềm an vui, rộn ràng, ấm áp đầy tình yêu thương.
Những ngày còn bé, tôi thường hay theo ba mẹ, các chị đến chùa vào ngày rằm hay mồng một, để Lễ Phật trong tiếng chuông, tiếng mõ, câu kinh…an lành.
Khi tôi là oanh vũ, những ngày cắm trại ở lại trong chùa. Đêm cùng các bạn trong đoàn nằm ngủ trước chánh điện… trằn trọc vì lạ chỗ, vì đông người…Bỗng bên tai vang lên những hồi chuông công phu đêm về sáng thật êm đềm. Trong lòng chợt bình yên và giấc ngủ tuổi thơ đến thật tròn giấc.
Rồi lúc lớn lên, tôi cảm nhận một điều rất rõ ràng mỗi khi nghe tiếng chuông là làm cho tâm thức tỉnh chuyển hóa mọi điều phiền muộn, lo toan trong lòng tôi, giúp mọi suy nghĩ lắng xuống và thân tâm tĩnh lặng. Hình như tiếng chuông đánh thức tôi trở về với chính mình, trở về với phút giây hiện tại an bình. Sau này đọc sách, tôi mới hiểu, thì ra “…tiếng Chuông là những âm thanh mang năng lượng trợ giúp con người biểu hiện lòng thành trên con đường giải thoát và giác ngộ, nhắc nhở mọi người trở về với thực tại an vui…”
Tôi thường ngồi trước sân Chùa nghe tiếng chuông từ Đại Hồng Chung đánh 108 tiếng trừ phiền não. Từng tiếng chuông ngân lên trong đêm, từng hồi chuông vang xa trong tĩnh mịch. “Thường thường đánh vào đầu hôm như nhắc nhở cơn vô thường rất nhanh chóng cho mọi người. Đánh vào cuối đêm có nghĩa là thức tĩnh để tu tâm…”
Thật là thanh thoát, bình yên…dường như quên hết mọi ưu phiền trong khi lắng nghe từng hồi chuông trống Bát Nhã vang lên trước mỗi buổi lễ.
Thật lòng mà nói, lúc trẻ tôi chẳng hiểu gì về triết lý thâm sâu của việc tu tập. Chỉ biết ăn ở làm sao cho hiếu đạo với cha mẹ, làm việc phải với mọi người…thế thôi. Nhưng thật lạ kỳ là tôi rất thích đến chùa, không phải để cầu xin hay để tụng niệm mà để được nghe tiếng chuông!
Và cứ thế, tiếng chuông đi vào tâm hồn tôi và rồi không biết tự bao giờ? Âm thanh tiếng chuông mang lại một chỗ nương tựa vững chắc, an toàn nhất cho tôi suốt cả một khoảng thời gian mà tôi đã sống trong cuộc đời này.
Tôi còn nhớ, dạo còn đi học, mỗi lần căng thẳng chuyện học hành hay lo lắng trước mỗi kỳ thi cử. Tôi lại thường đến chùa và lắng nghe tiếng chuông. Tiếng chuông như giúp tôi thêm niềm tin, thêm sức mạnh vào chính mình. Nó trợ giúp rất nhiều để sau đó, trở về nhà tôi chú tâm vào việc học hành được tốt hơn.
Những năm chiến tranh khốc liệt, tôi đi dạy ở một vùng tận đầu hỏa tuyến. Hàng ngày, tiếng súng rền vang, tiếng còi hú của xe cứu thương, tiếng động cơ trực thăng lên xuống tải thương… Cảnh bom đạn nổ, cảnh nhà cửa đổ nát, cảnh chết chóc thê lương…Sự sống và cái chết chỉ là trong gang tấc…Đêm đêm, hỏa châu soi sáng, tiếng đại bác từ xa vọng về… trong tâm trạng luôn luôn bất an! Bỗng từ đâu, tiếng chuông chùa thong thả từng tiếng ngân vang. Tự nhiên trong lòng tôi như có một điểm tựa. Đem đến một niềm tin vào sự yên ổn. Tiếng chuông như kêu gọi sự hòa bình. Tiếng chuông như xóa đi những hận thù. Tiếng chuông là một lời nguyện cầu bình yên đến với tất cả mọi người.
Có những buổi chiều đi ngang qua một ngôi làng nhỏ khi nắng vẫn còn vương nhạt trên sườn đồi. Dừng chân lại trong một không gian bao la, lắng nghe tiếng chuông nhà Thờ từng tiếng ngân vang. Tôi thấy lòng mình nhẹ tênh như bay bổng trong cảnh mênh mang của trời đất.
Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014
CaFe Sáng Chủ nhật Tháng 4
Quý Thầy Cô cùng ACE Sư Phạm Quy Nhơn
Chúc mừng Sinh nhật Anh Chị Nguyễn Hồng K 5 và 40 năm ngày cưới Chí Hải _ Bích Tuyền K 8 _ 9 .
Chúc mừng Sinh nhật Anh Chị Nguyễn Hồng K 5 và 40 năm ngày cưới Chí Hải _ Bích Tuyền K 8 _ 9 .
Ban Liên Lạc Sư Phạm Quy Nhơn ( Anh Dzũ , Anh Thận ) chúc mừng Quý ACE về tham dự |
Thầy Linh , Chị Minh và Chí Hải _ Bích Tuyền |
Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2014
TIN BUỒN
Ban Liên Lạc Cựu Giáo Sinh Sư Phạm Quy Nhơn
Ban Biên Tập Trang spqn.blogspot.com
Vừa biết tin bạn : Mai ngoc Định cựu giáo sinh lớp nhị 8 , Khóa 11 Sư Phạm Quy Nhơn vừa từ trần tại Qui Nhơn sau nhiều năm bạo bịnh...
Thành thật chia buồn cùng tang quyến , nguyện cầu hương linh bạn Định sớm siêu thoát về cõi Niết bàn .
( Trang Nhà cảm ơn Bạn Lê thị Xuân Đài nhị 8 , Thành phố Nha Trang đã chia sẻ )
Ban Biên Tập Trang spqn.blogspot.com
Vừa biết tin bạn : Mai ngoc Định cựu giáo sinh lớp nhị 8 , Khóa 11 Sư Phạm Quy Nhơn vừa từ trần tại Qui Nhơn sau nhiều năm bạo bịnh...
Thành thật chia buồn cùng tang quyến , nguyện cầu hương linh bạn Định sớm siêu thoát về cõi Niết bàn .
( Trang Nhà cảm ơn Bạn Lê thị Xuân Đài nhị 8 , Thành phố Nha Trang đã chia sẻ )
NHỚ TIẾNG TRỐNG TRƯỜNG
Kynguyen
Được ở gần trường học tôi rất vui. Mỗi lần học sinh tan học hay vào lớp tôi đều nghe vẳng tiếng trống trường quen thuộc, và mỗi lần đi chợ, theo đường tắt, tôi luôn chọn lối băng qua sân trường để được nhìn lại những hình ảnh thân quen của lớp học,sân trường, nhìn bóng dáng các thầy cô qua lại, nhìn các em tung tăng khắp sân, cười đùa vui vẻ…Tôi muốn tìm lại ngày xưa của mình, dầu gì cũng đã mấy mươi năm gắn bó với phấn trắng, bảng đen, với những trang giáo án soạn lúc đêm khuya, những buổi học đầy ắp tiếng cười của thầy trò ngày ấy. Ôi! Nhớ quá là nhớ…
Đầu năm học này, báo đài đưa tin về các em học sinh vùng cao phía Bắc phải gánh chịu thiên tai khủng khiếp ngay trước ngày khai giảng mà thương quá. Hoặc gần đây, hình ảnh các em đu dây qua sông để đến trường hay chui vào bao nilon nhờ người kéo qua suối…Cả Cô lẫn trò đều không muốn bỏ lỡ buổi học…Quý biết bao cái tinh thần hiếu học của dân mình.
Tôi nhớ đến bộ phim Thung Lũng Hoang Vắng được xem trên TV đã khá lâu. Nhớ thầy giáo Tành hiền lành, tận tụy với đồng nghiệp, với học trò… Nhớ nhất cảnh thầy dụ học trò, em nào chịu ở lại học cho hết buổi sẽ được thầy thưởng cho muỗng đường … Các em quây quanh thầy, háo hức chờ đợi… Thầy Tành múc từng muỗng đường trong cái hũ thủy tinh nhỏ bé, khéo léo rót vào miệng từng em…Rồi cảnh các em dùng cáng khiêng cô giáo đến lớp… Trường nằm trên đồi cao lộng gió, đơn sơ một mái tranh, hai lớp ngăn sơ sài bằng mấy tấm ván mỏng, hở trên, hở dưới… Cái chữ đến với các em sao mà vất vả, khó khăn quá. Các em cứ vừa học chữ, vừa lên nương phụ cha mẹ, chả mấy khi lớp học đầy đủ…
Tôi lại nhớ đến bài thơ của một cô giáo đã nghỉ hưu mà bâng khuâng nỗi niềm. Có lẽ những bạn đã “rửa tay gác kiếm “ như tôi khi đọc xong bài thơ này cũng nghĩ như tôi vậy. Xin gửi đến các bạn bài thơ ấy :
ĐÒ CHIỀU .
{ Xin tạ lỗi cùng cố thi sĩ Vũ Đình Liên }
Mỗi năm hoa phượng nở .
Lại thấy cô giáo già .
Lặng lẽ về trường cũ .
Mơ kỷ niệm đã xa …
Bạn bè thân thương quá .
Xúm xít lại hỏi chào .
Học trò quen với lạ .
Ánh mắt nhìn nao nao …
Nhưng mỗi năm mỗi vắng .
Người cũ cứ vơi dần.
Lá bàng buồn không thắm .
Phượng đỏ đứng trầm ngâm…
Năm nay hè lại đến .
Lối cũ cô trở về .
Ve ngân dài kể lể .
Cho lòng thêm tái tê !
Trường xưa vẫn còn đây .
Tình xưa chẳng còn đầy .
Bâng khuâng chiều thưa vắng .
Từng chiếc lá khô bay…
Đàm thị Huệ .
{ giáo viên THCS Nguyễn Ảnh Thủ - Hóc môn }
Buồn thật đấy, nhưng thôi, cứ an ủi rằng mình đã xong nhiệm vụ đưa đò. Xin chúc những bạn còn trụ lại với nghề nhiều niềm vui, nhiều sức khỏe và nhiệt tâm để hoàn thành thiên chức Nhà Giáo đã chọn.
KY NGUYEN
Được ở gần trường học tôi rất vui. Mỗi lần học sinh tan học hay vào lớp tôi đều nghe vẳng tiếng trống trường quen thuộc, và mỗi lần đi chợ, theo đường tắt, tôi luôn chọn lối băng qua sân trường để được nhìn lại những hình ảnh thân quen của lớp học,sân trường, nhìn bóng dáng các thầy cô qua lại, nhìn các em tung tăng khắp sân, cười đùa vui vẻ…Tôi muốn tìm lại ngày xưa của mình, dầu gì cũng đã mấy mươi năm gắn bó với phấn trắng, bảng đen, với những trang giáo án soạn lúc đêm khuya, những buổi học đầy ắp tiếng cười của thầy trò ngày ấy. Ôi! Nhớ quá là nhớ…
Đầu năm học này, báo đài đưa tin về các em học sinh vùng cao phía Bắc phải gánh chịu thiên tai khủng khiếp ngay trước ngày khai giảng mà thương quá. Hoặc gần đây, hình ảnh các em đu dây qua sông để đến trường hay chui vào bao nilon nhờ người kéo qua suối…Cả Cô lẫn trò đều không muốn bỏ lỡ buổi học…Quý biết bao cái tinh thần hiếu học của dân mình.
Tôi nhớ đến bộ phim Thung Lũng Hoang Vắng được xem trên TV đã khá lâu. Nhớ thầy giáo Tành hiền lành, tận tụy với đồng nghiệp, với học trò… Nhớ nhất cảnh thầy dụ học trò, em nào chịu ở lại học cho hết buổi sẽ được thầy thưởng cho muỗng đường … Các em quây quanh thầy, háo hức chờ đợi… Thầy Tành múc từng muỗng đường trong cái hũ thủy tinh nhỏ bé, khéo léo rót vào miệng từng em…Rồi cảnh các em dùng cáng khiêng cô giáo đến lớp… Trường nằm trên đồi cao lộng gió, đơn sơ một mái tranh, hai lớp ngăn sơ sài bằng mấy tấm ván mỏng, hở trên, hở dưới… Cái chữ đến với các em sao mà vất vả, khó khăn quá. Các em cứ vừa học chữ, vừa lên nương phụ cha mẹ, chả mấy khi lớp học đầy đủ…
Tôi lại nhớ đến bài thơ của một cô giáo đã nghỉ hưu mà bâng khuâng nỗi niềm. Có lẽ những bạn đã “rửa tay gác kiếm “ như tôi khi đọc xong bài thơ này cũng nghĩ như tôi vậy. Xin gửi đến các bạn bài thơ ấy :
ĐÒ CHIỀU .
{ Xin tạ lỗi cùng cố thi sĩ Vũ Đình Liên }
Mỗi năm hoa phượng nở .
Lại thấy cô giáo già .
Lặng lẽ về trường cũ .
Mơ kỷ niệm đã xa …
Bạn bè thân thương quá .
Xúm xít lại hỏi chào .
Học trò quen với lạ .
Ánh mắt nhìn nao nao …
Nhưng mỗi năm mỗi vắng .
Người cũ cứ vơi dần.
Lá bàng buồn không thắm .
Phượng đỏ đứng trầm ngâm…
Năm nay hè lại đến .
Lối cũ cô trở về .
Ve ngân dài kể lể .
Cho lòng thêm tái tê !
Trường xưa vẫn còn đây .
Tình xưa chẳng còn đầy .
Bâng khuâng chiều thưa vắng .
Từng chiếc lá khô bay…
Đàm thị Huệ .
{ giáo viên THCS Nguyễn Ảnh Thủ - Hóc môn }
Buồn thật đấy, nhưng thôi, cứ an ủi rằng mình đã xong nhiệm vụ đưa đò. Xin chúc những bạn còn trụ lại với nghề nhiều niềm vui, nhiều sức khỏe và nhiệt tâm để hoàn thành thiên chức Nhà Giáo đã chọn.
KY NGUYEN
Thứ Sáu, 4 tháng 4, 2014
TÌNH ĐỒNG MÔN CAO ĐẸP!
Chị Nguyễn Thị Gái là cựu giáo sinh Khóa 5 Sư Phạm Qui Nhơn, hiện ở tại Long Khánh.
Các bạn đồng môn biết hoàn cảnh của chị nên đã thường xuyên tìm đến để thăm hỏi, chia sẻ phần nào cuộc sống khó khăn cùng sức khỏe của chị.
Ngoài ra các bạn cùng với Bác sĩ Nha khoa Tiến Đạt đã giúp chị tìm lại và có được một nụ cười rạng rỡ vui tươi.
Thật cảm động trước tấm chân tình của mọi người. Tình đồng môn SPQN cao đẹp tuyệt vời!
BBT.
Các bạn đồng môn biết hoàn cảnh của chị nên đã thường xuyên tìm đến để thăm hỏi, chia sẻ phần nào cuộc sống khó khăn cùng sức khỏe của chị.
Ngoài ra các bạn cùng với Bác sĩ Nha khoa Tiến Đạt đã giúp chị tìm lại và có được một nụ cười rạng rỡ vui tươi.
Thật cảm động trước tấm chân tình của mọi người. Tình đồng môn SPQN cao đẹp tuyệt vời!
BBT.
Thứ Tư, 2 tháng 4, 2014
TƯỞNG NIỆM TRỊNH CÔNG SƠN
( Nhân ngày giỗ lần thứ 10 )
Phạm Mộ Đức
I
Đã đành trong cõi vô thường
Buồn vui tan hợp như sương đầu cành *
Dẫu rằng đất nước còn anh
Như còn Mây trắng
Rừng xanh
Lúa vàng
Dù cho còn mãi ngân vang
Lời Ca Anh với suối ngàn trăm năm ...
... Từ anh về chốn xa xăm
Ngày buồn như thể đêm rằm thiếu trăng !
II
Anh không là một triết gia
Không là linh mục -- không là nhà sư
Vẽ vời -- viết lách ...nghiệp dư !
Không mong bất tử --- Không mơ tượng đài !
" Chàng Thơ Ca " ** cứ miệt mài
Rảo chân du tử --- vỗ cây đàn thùng
Cất cao tiếng hát phiêu bồng
Quê hương tang tóc
Long đong phận người ...
Tình yêu trong sáng
ngậm ngùi ...
Vì chưng anh đã " quá yêu Đời Này " !
0
Nhạc anh :
Kinh kệ hôm mai
Tâm hồn Dân Tộc
Những bài Thánh ca ...
Suối nguồn An Ủi thiết tha
Mênh mông Tình Nước
Bao la Tình Người ... * Mượn ý trong câu thơ của Vạn Hạnh thiền sư : " Thịnh suy như lộ thảo đầu phô "
( Thịnh suy như sương phơi đầu ngọn cỏ )
** Văn Cao đã từng viết : " Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca ( chantre ) bởi ở Sơn nhạc và thơ quyện vào nhau "
Phạm Mộ Đức
I
Đã đành trong cõi vô thường
Buồn vui tan hợp như sương đầu cành *
Dẫu rằng đất nước còn anh
Như còn Mây trắng
Rừng xanh
Lúa vàng
Dù cho còn mãi ngân vang
Lời Ca Anh với suối ngàn trăm năm ...
... Từ anh về chốn xa xăm
Ngày buồn như thể đêm rằm thiếu trăng !
II
Không là linh mục -- không là nhà sư
Vẽ vời -- viết lách ...nghiệp dư !
Không mong bất tử --- Không mơ tượng đài !
" Chàng Thơ Ca " ** cứ miệt mài
Rảo chân du tử --- vỗ cây đàn thùng
Cất cao tiếng hát phiêu bồng
Quê hương tang tóc
Long đong phận người ...
Tình yêu trong sáng
ngậm ngùi ...
Vì chưng anh đã " quá yêu Đời Này " !
0
Nhạc anh :
Kinh kệ hôm mai
Tâm hồn Dân Tộc
Những bài Thánh ca ...
Suối nguồn An Ủi thiết tha
Mênh mông Tình Nước
Bao la Tình Người ... * Mượn ý trong câu thơ của Vạn Hạnh thiền sư : " Thịnh suy như lộ thảo đầu phô "
( Thịnh suy như sương phơi đầu ngọn cỏ )
** Văn Cao đã từng viết : " Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca ( chantre ) bởi ở Sơn nhạc và thơ quyện vào nhau "
TIN BUỒN MUỘN
Ban Liên Lạc Cựu Giáo Sinh Sư Phạm Quy Nhơn
Ban Biên Tập Trang spqn.blogspot.com
Vừa nhận hung tin muộn , Anh Phan Thừa Tấu _Khóa 2 Sư Phạm Quy Nhơn . Đã ra đi về Cõi Vĩnh hằng tại Thành Phố Nha Trang , Tỉnh Khánh Hòa .
Thành thật chia buồn cùng toàn Gia quyến . Nguyện cầu cho Hương linh Anh Phan Thừa Tấu sớm siêu thoát về Cõi Niết bàn .
( Cảm ơn Anh Phan Cứ SPQN Dalat _ Lâm Đồng đã chia sẻ trên Facebook )
Ban Biên Tập Trang spqn.blogspot.com
Vừa nhận hung tin muộn , Anh Phan Thừa Tấu _Khóa 2 Sư Phạm Quy Nhơn . Đã ra đi về Cõi Vĩnh hằng tại Thành Phố Nha Trang , Tỉnh Khánh Hòa .
Thành thật chia buồn cùng toàn Gia quyến . Nguyện cầu cho Hương linh Anh Phan Thừa Tấu sớm siêu thoát về Cõi Niết bàn .
( Cảm ơn Anh Phan Cứ SPQN Dalat _ Lâm Đồng đã chia sẻ trên Facebook )
TIN BUỒN
Ban Liên Lạc Cựu Giáo Sinh Sư Phạm Quy Nhơn
Ban Biên Tập Trang spqn.blogspot.com
Vừa nhận hung tin muộn , Mẹ của Anh Nguyễn Hồng _Khóa 5 Sư Phạm Quy Nhơn . Đã ra đi về Cõi Vĩnh hằng Ngày 01-04-2014 tại Phú Vang , Thành Phố Huế .
Thành thật chia buồn cùng Anh Nguyễn Hồng cùng toàn Gia quyến . Nguyện cầu cho Hương linh Cụ Bà sớm siêu thoát về miền cực lạc .
( Cảm ơn Chị Đặng thị Diệp và Anh Chí Hải đã chia sẻ )
Ban Biên Tập Trang spqn.blogspot.com
Vừa nhận hung tin muộn , Mẹ của Anh Nguyễn Hồng _Khóa 5 Sư Phạm Quy Nhơn . Đã ra đi về Cõi Vĩnh hằng Ngày 01-04-2014 tại Phú Vang , Thành Phố Huế .
Thành thật chia buồn cùng Anh Nguyễn Hồng cùng toàn Gia quyến . Nguyện cầu cho Hương linh Cụ Bà sớm siêu thoát về miền cực lạc .
( Cảm ơn Chị Đặng thị Diệp và Anh Chí Hải đã chia sẻ )
Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014
CHO DÙ LÀ SỎI ĐÁ
Tưởng niệm niên trưởng TCS
Đan Thanh
( *Bài hát và ca từ của Trịnh Công Sơn )
Đan Thanh
Xao xác màu chiều
Còn lại xót xa
Đêm dài mắt chong
Hoàng hôn khép lá
Ngẩn nhìn trời mơ
Hồn nhiên như hoa như quả
Có thể tình cờ thu xanh êm ả
Và yêu Trịnh
Sẽ thấy môi hồng mùa hạ
Thấy nắng tan vào mùa thu
Cũng chợt bâng khuâng một sớm sương mù
Ráng chiều thắp rừng lá
Lời cỏ, lời hoa, lời của trần gian thênh thang phố lạ
“Xin trả nợ đời, Tình nhớ, Tình xa”
“Một cõi đi về”*
Có giông bão và hoa
Bỏ lại hương, bỏ lại tiếng cười, bỏ ngàn lời ca
Sơn về bến lạ
Một vũng cô liêu không bờ bát ngát mở ra…
Lời nhắn nhủ nghìn sau
Ai cũng cần có nhau
Cho dù là sỏi đá *
Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014
Còn một chút gì...
Đan Thanh
Chiếc xe đò dừng lại gần đầu cầu,mọi người hối hả ,nháo nhào xuống. Thanh nghĩ, có lẽ đường từ đây , cũng bằng từ bến cuối về nhà ,thế là Thanh vội vàng bước theo.Chiếc xe ù chạy để lại một đám bụi vàng là là bay trên mặt đường
Chỉ gần 20 km mà chiếc xe cà tàng đi hơn một tiếng đồng hồ, trả khách đón khách , bắt hành khách xuống xe đi bộ qua trạm…nhiêu khê như thế mà phải chấp nhận vì đây là phương tiện duy nhất nối thành phố với quê Thanh
Dân hai xã đi “ké”trên chiếc cầu kiên cố được quân đội Mỹ xây để phục vụ mục đích quân sự. Không có thành cầu nhưng hai bên cũng có lối dành cho người đi bộ.Cầu bắc qua chỗ khúc quanh của dòng sông, nước từ đầu nguồn đổ về đã có Giăng Đá chắn lại nên không chảy xiết mà trôi lờ đờ chầm chậm
Chiều đã xuống dần trên bãi ngô bên kia sông. Thanh bước thong thả trên cầu, gió nhẹ xua tan cái nóng bức chật chội mà Thanh phải chịu đựng trên chiếc xe đò có cái tên Mỹ Lệ. Còn chiếc xe nữa chạy cùng tuyến, bệ rạc hơn mà tên gọi thì giàu sang phách lối :Kim Hoàn “Túy Loan có chiếc Kim Hoàn, Mỗi ngày bốn chuyến Chợ Hàn xuống lên” Không hiểu sao người chủ xe lại đặt cho nó cái tên trái ngược với cái xe thế không biết.
Qua khỏi cầu, Thanh rẽ vào con đường đất chạy giữa những vườn cây xanh um ,rồi băng qua nghĩa địa của làng. Cái nơi này không u ám lạnh lẽo như những nghĩa địa khác. Những ngôi mộ, đa số là mộ đất nằm lặng dưới những bụi cây ,những đám móc mèo, những cây sim,cây hoa giẽ …
Trên các bụi cây đó có cơ man nào là dây leo có hoa trắng ,tên địa phương là hoa giành giành nhưng lũ học trò đặt cho nó một cái tên đẹp đẽ :hoa trinh tâm. Hoa có năm cánh dài ,nở vào lúc hoàng hôn, ngát thơm cả một vùng. Thời tiểu học Thanh thường chơi trốn tìm , chơi “U” hay vài trò chơi thú vị ở đây. Không khí mát mẻ như trong một vườn cây chứ không buồn tẻ nặng nề như trong nghĩa địa.
Qua cái ngõ ngói cũ kỉ , cái sân gạch quen thuộc Thanh thấy lòng mình ấm áp và thanh thản ,mọi ưu phiền lo lắng bị bỏ lại phía sau…
Thanh lớn lên trong sự bình yên ,giản dị ,trong sự yêu thương âu yếm của gia đình ,trong ngôi nhà cổ thân thương ,nơi Thanh dễ dàng đi lại trong đêm tối mà không hề vấp vào bất cứ một cái cột, cái ngạch cửa hay đồ vật nào
Sau khi tốt nghiệp sư phạm ,Thanh lấy chồng , cuộc đời Thanh bình dị như được lập trình theo khuôn mẫu : học hết cấp ba, học xong sư phạm, ra trường có việc làm và lấy chồng.
Nhưng từ đây cuộc đời Thanh đã rẽ sang một hướng khác, người chồng lớn hơn Thanh mười tuổi ,là cháu chít của một ông nghè ông phủ gì đó ở tận La Qua,đã thừa hưởng cái chất gia trưởng hết sức nặng nề từ tổ tiên đã làm cho không khí gia đình lúc nào cũng đặc quánh ,nghiêm cẩn như trong phòng xử, lúc quan tòa tuyên án.
Người chồng tuân thủ quy luật “phu xướng phụ tùy”với quy ước bất thành văn: Điều một : chồng lúc nào cũng đúng. Điều hai : Khi thấy chồng không đúng, hãy xem lại điều một. Rồi những cái tát, cái đá khi nóng giận ,những câu chửi rủa khi bực mình đã biến cái gia đình ấy thành địa ngục.Thanh không né đòn, cũng không phản kháng mà cứ im lặng khinh khỉnh nhìn chồng , có thể vì thế mà nhận thêm vài cái tát nữa cũng nên.
Cuộc sống cứ tiếp diễn như vậy hơn mười năm. Những vết rạn đã thành rãnh, thành khe sâu
Một chút mơ mộng , một chút vẩn vơ không còn có chỗ để cựa quậy .Cái mơ mộng nằm bẹp dúm ở một nơi nào đó trong trái tim thỉnh thoảng cũng quẫy đạp đôi lần nhưng không còn đủ sức để ngoi lên , có lẽ chính vì thế mà lúc nàoThanh cũng thấy có một vật nặng đè lên ngực…
“Từng năm, từng đứa con con, Nàng cười vá mãi vết thương chẳng lành” Nhưng thật là may mắn, chồng Thanh đã quen biết và đi lại với một người đàn bà khác nên cuộc chia tay tưởng như sẽ “ghê gớm” lắm mà hóa ra lại thật nhẹ nhàng, với một điều kiện nhỏ được thỏa thuận ngầm : tất cả tài sản của gia đình người chồng được toàn quyền sử dụng.
Thanh muốn giữ chiếc xe Honda cũ để đi lại,nhưng ông ta bảo: Khi nào thằng con lớn đủ mười tám tuổi, ông sẽ giao xe lại.Thanh nhếch mép cười khi nghĩ đến việc mình sẽ bán cái mớ sắt ấy cho bà ve chai sau mười mấy năm nữa. Con cái do Thanh nuôi vì khi Thanh nêu ý kiến ấy trước tòa thì ông ta đồng ý liền. Đây là lần đầu tiên Thanh thấy sự hòa nhã, lịch sự của chồng sau hơn mười năm chung sống : Ông không đòi quyền được nuôi con của người cha.
Mọi cam chịu đã được rủ bỏ.Thanh không tha thiết gì đến của cải được tích cóp bấy lâu. Không biết có quá đáng khi Thanh nghĩ là mình vừa được …ra tù
Một hôm đi làm về, Thanh thấy căn nhà thuê trống hươ. Mọi thứ đồ dùng đã biến mất . Giường, tủ, bàn ghế…không còn, Căn nhà trống rỗng. Mấy đứa con ngồi cạnh đống áo quần được lôi ra khi lấy tủ, mỗi đứa ôm khư khư một chồng sách vở .
Thanh nghĩ của cải là xe, là nhà, là…,chứ Thanh đâu có ngờ mọi thứ vật dụng tầm thường ấy cũng là của cải và cũng bị lấy đi .
Tối nay sẽ ngủ ở đâu ? con sẽ ngồi học chỗ nào ? Suýt chút nữa Thanh đã òa khóc nhưng đã kịp giữ lại…
Thanh cười bảo con: Son nồi, chảo quánh ,và cái tủ lạnh hãy còn.May quá. Hôm nay thứ bảy, cả nhà mình đi ăn bún bò…
Thời gian lặng lẽ trôi với cuộc mưu sinh vất vả sau chiến tranh. Thanh cắm đầu cắm cổ kiếm cơm ,để nuôi con ăn học. Khi ngẩng lên thì tóc đã thay màu.
Chiếc xe đò dừng lại gần đầu cầu,mọi người hối hả ,nháo nhào xuống. Thanh nghĩ, có lẽ đường từ đây , cũng bằng từ bến cuối về nhà ,thế là Thanh vội vàng bước theo.Chiếc xe ù chạy để lại một đám bụi vàng là là bay trên mặt đường
Chỉ gần 20 km mà chiếc xe cà tàng đi hơn một tiếng đồng hồ, trả khách đón khách , bắt hành khách xuống xe đi bộ qua trạm…nhiêu khê như thế mà phải chấp nhận vì đây là phương tiện duy nhất nối thành phố với quê Thanh
Dân hai xã đi “ké”trên chiếc cầu kiên cố được quân đội Mỹ xây để phục vụ mục đích quân sự. Không có thành cầu nhưng hai bên cũng có lối dành cho người đi bộ.Cầu bắc qua chỗ khúc quanh của dòng sông, nước từ đầu nguồn đổ về đã có Giăng Đá chắn lại nên không chảy xiết mà trôi lờ đờ chầm chậm
Chiều đã xuống dần trên bãi ngô bên kia sông. Thanh bước thong thả trên cầu, gió nhẹ xua tan cái nóng bức chật chội mà Thanh phải chịu đựng trên chiếc xe đò có cái tên Mỹ Lệ. Còn chiếc xe nữa chạy cùng tuyến, bệ rạc hơn mà tên gọi thì giàu sang phách lối :Kim Hoàn “Túy Loan có chiếc Kim Hoàn, Mỗi ngày bốn chuyến Chợ Hàn xuống lên” Không hiểu sao người chủ xe lại đặt cho nó cái tên trái ngược với cái xe thế không biết.
Qua khỏi cầu, Thanh rẽ vào con đường đất chạy giữa những vườn cây xanh um ,rồi băng qua nghĩa địa của làng. Cái nơi này không u ám lạnh lẽo như những nghĩa địa khác. Những ngôi mộ, đa số là mộ đất nằm lặng dưới những bụi cây ,những đám móc mèo, những cây sim,cây hoa giẽ …
Trên các bụi cây đó có cơ man nào là dây leo có hoa trắng ,tên địa phương là hoa giành giành nhưng lũ học trò đặt cho nó một cái tên đẹp đẽ :hoa trinh tâm. Hoa có năm cánh dài ,nở vào lúc hoàng hôn, ngát thơm cả một vùng. Thời tiểu học Thanh thường chơi trốn tìm , chơi “U” hay vài trò chơi thú vị ở đây. Không khí mát mẻ như trong một vườn cây chứ không buồn tẻ nặng nề như trong nghĩa địa.
Qua cái ngõ ngói cũ kỉ , cái sân gạch quen thuộc Thanh thấy lòng mình ấm áp và thanh thản ,mọi ưu phiền lo lắng bị bỏ lại phía sau…
Thanh lớn lên trong sự bình yên ,giản dị ,trong sự yêu thương âu yếm của gia đình ,trong ngôi nhà cổ thân thương ,nơi Thanh dễ dàng đi lại trong đêm tối mà không hề vấp vào bất cứ một cái cột, cái ngạch cửa hay đồ vật nào
Sau khi tốt nghiệp sư phạm ,Thanh lấy chồng , cuộc đời Thanh bình dị như được lập trình theo khuôn mẫu : học hết cấp ba, học xong sư phạm, ra trường có việc làm và lấy chồng.
Nhưng từ đây cuộc đời Thanh đã rẽ sang một hướng khác, người chồng lớn hơn Thanh mười tuổi ,là cháu chít của một ông nghè ông phủ gì đó ở tận La Qua,đã thừa hưởng cái chất gia trưởng hết sức nặng nề từ tổ tiên đã làm cho không khí gia đình lúc nào cũng đặc quánh ,nghiêm cẩn như trong phòng xử, lúc quan tòa tuyên án.
Người chồng tuân thủ quy luật “phu xướng phụ tùy”với quy ước bất thành văn: Điều một : chồng lúc nào cũng đúng. Điều hai : Khi thấy chồng không đúng, hãy xem lại điều một. Rồi những cái tát, cái đá khi nóng giận ,những câu chửi rủa khi bực mình đã biến cái gia đình ấy thành địa ngục.Thanh không né đòn, cũng không phản kháng mà cứ im lặng khinh khỉnh nhìn chồng , có thể vì thế mà nhận thêm vài cái tát nữa cũng nên.
Cuộc sống cứ tiếp diễn như vậy hơn mười năm. Những vết rạn đã thành rãnh, thành khe sâu
Một chút mơ mộng , một chút vẩn vơ không còn có chỗ để cựa quậy .Cái mơ mộng nằm bẹp dúm ở một nơi nào đó trong trái tim thỉnh thoảng cũng quẫy đạp đôi lần nhưng không còn đủ sức để ngoi lên , có lẽ chính vì thế mà lúc nàoThanh cũng thấy có một vật nặng đè lên ngực…
“Từng năm, từng đứa con con, Nàng cười vá mãi vết thương chẳng lành” Nhưng thật là may mắn, chồng Thanh đã quen biết và đi lại với một người đàn bà khác nên cuộc chia tay tưởng như sẽ “ghê gớm” lắm mà hóa ra lại thật nhẹ nhàng, với một điều kiện nhỏ được thỏa thuận ngầm : tất cả tài sản của gia đình người chồng được toàn quyền sử dụng.
Thanh muốn giữ chiếc xe Honda cũ để đi lại,nhưng ông ta bảo: Khi nào thằng con lớn đủ mười tám tuổi, ông sẽ giao xe lại.Thanh nhếch mép cười khi nghĩ đến việc mình sẽ bán cái mớ sắt ấy cho bà ve chai sau mười mấy năm nữa. Con cái do Thanh nuôi vì khi Thanh nêu ý kiến ấy trước tòa thì ông ta đồng ý liền. Đây là lần đầu tiên Thanh thấy sự hòa nhã, lịch sự của chồng sau hơn mười năm chung sống : Ông không đòi quyền được nuôi con của người cha.
Mọi cam chịu đã được rủ bỏ.Thanh không tha thiết gì đến của cải được tích cóp bấy lâu. Không biết có quá đáng khi Thanh nghĩ là mình vừa được …ra tù
Một hôm đi làm về, Thanh thấy căn nhà thuê trống hươ. Mọi thứ đồ dùng đã biến mất . Giường, tủ, bàn ghế…không còn, Căn nhà trống rỗng. Mấy đứa con ngồi cạnh đống áo quần được lôi ra khi lấy tủ, mỗi đứa ôm khư khư một chồng sách vở .
Thanh nghĩ của cải là xe, là nhà, là…,chứ Thanh đâu có ngờ mọi thứ vật dụng tầm thường ấy cũng là của cải và cũng bị lấy đi .
Tối nay sẽ ngủ ở đâu ? con sẽ ngồi học chỗ nào ? Suýt chút nữa Thanh đã òa khóc nhưng đã kịp giữ lại…
Thanh cười bảo con: Son nồi, chảo quánh ,và cái tủ lạnh hãy còn.May quá. Hôm nay thứ bảy, cả nhà mình đi ăn bún bò…
Thời gian lặng lẽ trôi với cuộc mưu sinh vất vả sau chiến tranh. Thanh cắm đầu cắm cổ kiếm cơm ,để nuôi con ăn học. Khi ngẩng lên thì tóc đã thay màu.
Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014
Chút Tình Xin Gửi Gió…
Châu Thị Thanh Cảm
Mấy hôm nay trời bỗng nắng như đổ lửa, cái nắng gay gắt như thiêu đốt mang theo làn gió nóng xát vào da thịt cái cảm giác bức bối khó chịu. Chiều xuống, ánh nắng cuối cùng của ngày đã khép lại nhưng cái nóng vẫn còn hầm hập bủa quanh. Trong cái chập choạng của hoàng hôn, những con đường thành phố lại càng đông đúc, người xe càng hối hả như muốn mau chóng trở về nhà sau một ngày tất bật…
Kể từ sau cái ngày con đường Tân Sơn Nhất- Bình Lợi- Vành đai ngoài chính thức được thông xe, vì sống gần đó nên mỗi chiều, khi nắng dần phai và thành phố bắt đầu lên đèn, tôi thường một mình dạo bộ bên cây cầu rộng thênh thang trên con đường đep nhất nội đô này. Cũng bởi mấy hôm nay trời nắng nóng nên người đến bên cầu hóng mát nhiều hơn mọi ngày. Ngoài những người lớn tuổi kết hợp đi bộ và hóng gió như tôi còn có rất nhiều bạn trẻ từng nhóm bên thành cầu thảnh thơi thư giản…Ngày đã tắt, gió từ mặt sông thổi lên man mát, có mùi hương hoa nào quyện tròn trong không gian… lan man…nhẹ nhỏm…
Tôi vẫn thường trở về khi trời đêm đã bắt đầu trở gió và mặt sông thẫm lại. Và, hôm nào cũng vậy, cứ đều đặn vào tầm giờ này, phía dưới chân cầu lại chầm chậm nhô lên một chiếc xe nhỏ với ngồn ngộn những giấy vụn, bao bì, chai lọ… bên trên được phủ một tấm vải bạt nhàu nhĩ và cáu bẩn. Chiếc xe và cái mớ hỗn độn ấy che khuất tầm nhìn của một bà cụ gầy còm còng lưng ở phía sau, đang cố đẩy cho chiếc xe nhích lên từng chút một. Trên đầu bà cụ đội một chiếc mũ vải rộng vành đã trở màu đen nhẻm, phía sau xe lủng lẳng một chiếc nón lá rách tươm, chiếc nón có lẽ để bà đỡ ướt lúc trời chợt đổ mưa hay dịu bớt cái nắng gắt trưa hè?
Bà cụ già chậm chạp đẩy chiếc xe ì ạch từng bước lên cầu…Cứ tưởng bà sẽ phải vất vả với chiếc xe đầy phế liệu ấy, nhưng hôm nào cũng vậy, lúc thì chàng trai trẻ, lúc cô gái trên đường…Họ dừng lại và rồi tận tình giúp bà đưa xe sang đường hay đẩy nó leo lên con dốc nhỏ qua phía bên kia đường ray xe lửa.
Lần này, tôi đến bên bà cụ và bắt chuyện làm quen...
- Bà ơi, cho con cùng đẩy giúp bà… - Gọi là bà nhưng nhìn bà cụ tôi nghĩ chắc chỉ trạc tuổi mẹ tôi thôi. Bà chậm rãi:
- Vâng, nhờ cô... - Bà nói mà không nhìn tôi, một giọng Bắc khàn khàn. Chầm chậm, tôi cùng bà vừa đẩy chiếc xe, vừa trò chuyện…
- Bà ơi, con có thể gọi tên bà là gì ạ?
- Tôi tên Cao Thị Thành, tám mươi hơn rồi cô ạ, nhưng đời tôi sao khổ mãi thế này…! - Giọng bà như ngấn nước.
- Thế bà có chồng hay con cháu gì ở đây không?- Tôi hỏi.
- Ông nhà tôi mất đã lâu. Tôi có hai người con gái, một đứa cũng mất rồi, đứa còn lại 52 tuổi rồi đấy cô, nó tên Hường, nhưng khổ thân… nó bị bệnh tâm thần… - Bà ngập ngừng - Mười mấy năm rồi nó vẫn ở Bệnh viện Tâm thần Thủ Đức. Hằng ngày tôi phải đi nhặt ve chai để kiếm cái ăn qua ngày và cũng để gom góp mà vào thăm con…- Bùi ngùi một lúc, bà tiếp tục kể - Cô biết không? Nó có chịu vào bệnh viện tâm thần đâu, phải nhờ mấy ông nhà nước dụ dỗ mãi nó mới cho chở đi đấy! Ngày còn ở nhà, mỗi khi lên cơn là nó xé rách áo quần, đổ cả cơm canh…Có nhiều lần nó còn đuổi đánh luôn cả tôi cơ… Nhưng biết sao được cô ơi, nó là con của tôi mà…! - Bà đưa cánh tay áo ngắn ngủn quệt ngang, có lẽ mắt bà đang rơm rớm.
Nhìn bà, ngại ngần tôi hỏi:
- Bà đi từ lúc nào mà bây giờ mới về vậy?
- Từ sáng sớm, sau khi đã bán cái ngày hôm qua…- Bà mộc mạc trả lời, giọng khàn đục.
- Vậy mỗi ngày bà bán được bao nhiêu? Có đủ chi tiêu không?
- Dăm ba chục nghìn là nhiều. Hôm nào có người cho lon bia, thùng giấy…thì bán được nhiều hơn…Nhưng cô ạ…- Giọng bà chầm chậm, đứt quảng- Ngày nào cũng có người gọi cho, có khi cho cả tiền, cả cơm…Có lẽ họ thương cho hoàn cảnh khốn khổ của tôi…
Quay lại nhìn, ánh mắt ấy hấp háy và đôi môi thâm nâu thoáng một nụ cười, nét cười buồn trên khuôn mặt nhăn nhúm, đen đủi. Rồi bà tiếp tục với giọng trầm đều như muốn trút cạn nỗi lòng u ẩn:
- Tôi quê ở Thái Bình, vào Nam từ năm năm tư cơ cô ạ. Hai đứa con, một đứa mất đã lâu, một đứa thì bệnh tâm thần bao năm nay…Thật khốn khổ cái thân tôi…! Già rồi, chết đi đã là cái nhẽ… nhưng con tôi…nó dở khóc dở cười, không biết sau này phải làm thế nào? Tội nó lắm cô ơi…!- Giọng bà buồn thiu, từng câu… từng câu một như cắt cứa cả lòng. Ánh mắt đùng đục của bà nhìn ra xa xăm, khắc khoải những nỗi niềm… Bà khóc, tiếng khóc nhỏ cuộn tròn âu lo, cả hai chúng tôi chợt lặng im suốt một đoạn đường.
Kể từ sau cái ngày con đường Tân Sơn Nhất- Bình Lợi- Vành đai ngoài chính thức được thông xe, vì sống gần đó nên mỗi chiều, khi nắng dần phai và thành phố bắt đầu lên đèn, tôi thường một mình dạo bộ bên cây cầu rộng thênh thang trên con đường đep nhất nội đô này. Cũng bởi mấy hôm nay trời nắng nóng nên người đến bên cầu hóng mát nhiều hơn mọi ngày. Ngoài những người lớn tuổi kết hợp đi bộ và hóng gió như tôi còn có rất nhiều bạn trẻ từng nhóm bên thành cầu thảnh thơi thư giản…Ngày đã tắt, gió từ mặt sông thổi lên man mát, có mùi hương hoa nào quyện tròn trong không gian… lan man…nhẹ nhỏm…
Tôi vẫn thường trở về khi trời đêm đã bắt đầu trở gió và mặt sông thẫm lại. Và, hôm nào cũng vậy, cứ đều đặn vào tầm giờ này, phía dưới chân cầu lại chầm chậm nhô lên một chiếc xe nhỏ với ngồn ngộn những giấy vụn, bao bì, chai lọ… bên trên được phủ một tấm vải bạt nhàu nhĩ và cáu bẩn. Chiếc xe và cái mớ hỗn độn ấy che khuất tầm nhìn của một bà cụ gầy còm còng lưng ở phía sau, đang cố đẩy cho chiếc xe nhích lên từng chút một. Trên đầu bà cụ đội một chiếc mũ vải rộng vành đã trở màu đen nhẻm, phía sau xe lủng lẳng một chiếc nón lá rách tươm, chiếc nón có lẽ để bà đỡ ướt lúc trời chợt đổ mưa hay dịu bớt cái nắng gắt trưa hè?
Bà cụ già chậm chạp đẩy chiếc xe ì ạch từng bước lên cầu…Cứ tưởng bà sẽ phải vất vả với chiếc xe đầy phế liệu ấy, nhưng hôm nào cũng vậy, lúc thì chàng trai trẻ, lúc cô gái trên đường…Họ dừng lại và rồi tận tình giúp bà đưa xe sang đường hay đẩy nó leo lên con dốc nhỏ qua phía bên kia đường ray xe lửa.
Lần này, tôi đến bên bà cụ và bắt chuyện làm quen...
- Bà ơi, cho con cùng đẩy giúp bà… - Gọi là bà nhưng nhìn bà cụ tôi nghĩ chắc chỉ trạc tuổi mẹ tôi thôi. Bà chậm rãi:
- Vâng, nhờ cô... - Bà nói mà không nhìn tôi, một giọng Bắc khàn khàn. Chầm chậm, tôi cùng bà vừa đẩy chiếc xe, vừa trò chuyện…
- Bà ơi, con có thể gọi tên bà là gì ạ?
- Tôi tên Cao Thị Thành, tám mươi hơn rồi cô ạ, nhưng đời tôi sao khổ mãi thế này…! - Giọng bà như ngấn nước.
- Thế bà có chồng hay con cháu gì ở đây không?- Tôi hỏi.
- Ông nhà tôi mất đã lâu. Tôi có hai người con gái, một đứa cũng mất rồi, đứa còn lại 52 tuổi rồi đấy cô, nó tên Hường, nhưng khổ thân… nó bị bệnh tâm thần… - Bà ngập ngừng - Mười mấy năm rồi nó vẫn ở Bệnh viện Tâm thần Thủ Đức. Hằng ngày tôi phải đi nhặt ve chai để kiếm cái ăn qua ngày và cũng để gom góp mà vào thăm con…- Bùi ngùi một lúc, bà tiếp tục kể - Cô biết không? Nó có chịu vào bệnh viện tâm thần đâu, phải nhờ mấy ông nhà nước dụ dỗ mãi nó mới cho chở đi đấy! Ngày còn ở nhà, mỗi khi lên cơn là nó xé rách áo quần, đổ cả cơm canh…Có nhiều lần nó còn đuổi đánh luôn cả tôi cơ… Nhưng biết sao được cô ơi, nó là con của tôi mà…! - Bà đưa cánh tay áo ngắn ngủn quệt ngang, có lẽ mắt bà đang rơm rớm.
Nhìn bà, ngại ngần tôi hỏi:
- Bà đi từ lúc nào mà bây giờ mới về vậy?
- Từ sáng sớm, sau khi đã bán cái ngày hôm qua…- Bà mộc mạc trả lời, giọng khàn đục.
- Vậy mỗi ngày bà bán được bao nhiêu? Có đủ chi tiêu không?
- Dăm ba chục nghìn là nhiều. Hôm nào có người cho lon bia, thùng giấy…thì bán được nhiều hơn…Nhưng cô ạ…- Giọng bà chầm chậm, đứt quảng- Ngày nào cũng có người gọi cho, có khi cho cả tiền, cả cơm…Có lẽ họ thương cho hoàn cảnh khốn khổ của tôi…
Quay lại nhìn, ánh mắt ấy hấp háy và đôi môi thâm nâu thoáng một nụ cười, nét cười buồn trên khuôn mặt nhăn nhúm, đen đủi. Rồi bà tiếp tục với giọng trầm đều như muốn trút cạn nỗi lòng u ẩn:
- Tôi quê ở Thái Bình, vào Nam từ năm năm tư cơ cô ạ. Hai đứa con, một đứa mất đã lâu, một đứa thì bệnh tâm thần bao năm nay…Thật khốn khổ cái thân tôi…! Già rồi, chết đi đã là cái nhẽ… nhưng con tôi…nó dở khóc dở cười, không biết sau này phải làm thế nào? Tội nó lắm cô ơi…!- Giọng bà buồn thiu, từng câu… từng câu một như cắt cứa cả lòng. Ánh mắt đùng đục của bà nhìn ra xa xăm, khắc khoải những nỗi niềm… Bà khóc, tiếng khóc nhỏ cuộn tròn âu lo, cả hai chúng tôi chợt lặng im suốt một đoạn đường.
Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014
NGUYỆT QUÝ MẾN THƯƠNG.
Ảnh minh họa Facebook |
Lá xanh như ngọc mượt mà đẹp xinh.
Mảnh mai yểu điệu dáng hình.
Nụ hoa chúm chím đầu cành tốt tươi.
Nở thành tràng chuỗi tinh khôi.
Hương thơm ngào ngạt khắp nơi xa gần.
Ong về bay lượn đầy sân.
Trỗi lên khúc nhạc tình xuân rộn ràng.
Đâu ngờ một sớm hè sang.
Cây buồn rũ rượi lá vàng rơi rơi.
Đau lòng ta lắm ai ơi.
Quý lâm bạo bệnh hay người tương tư.
Biết làm răng được bây chừ.
Phải mau kiếm cách để trừ bệnh ngay.
Bắt sâu , thay đất cho cây.
Tỉa cành, tưới tắm, ngày ngày chăm nom.
Bón phân 4 đúng đàng hoàng.
Kiên trì suốt một thời gian khá dài.
Quý bình phục, vẻ trang đài.
Nụ hoa mũm mĩm rất hài lòng ta.
Nở từng tràng chuỗi đầy hoa.
Hương thơm ngào ngạt trong nhà ngoài sân.
Như thầm đáp lại thâm ân.
Mẹ thương cải tử hoàn sinh Quý rồi.
Nhìn hoa liên tưởng đến người.
Con mà bạo bệnh mẹ thời thuốc thang.
Nếu con cá biệt chưa ngoan.
Mẹ càng chăm sóc bảo ban ngọt ngào.
Đêm buồn khấn nguyện trời cao.
Mong con khôn lớn sống sao nên người.
Bao la tình mẹ biển khơi.
Đêm đêm hương Quý nhắc người chớ quên.
T.N – K.5
Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014
VỀ LẠI TRƯỜNG XƯA
Nguyễn Thị Bích Hà ( K9)
Bốn mươi năm (1972-2012 ) kể từ ngày chuyến đò chung tách bến, chúng ta mỗi người đi về một bến khác nhau, nhưng tất cả đều ao ước được một lần về thăm trường cũ…
Khi được chị Thanh thông báo sẽ tổ chức một chuyến về nguồn, chúng tôi vui mừng như vừa tìm lại được một cái gì đã mất. Điện thoại reng liên tục : Cẩm Thanh, Đàm ,Oang rồi Bê, Nhung gọi đến hẹn hò . Không biết phải chuẩn bị gì đây. Đối với phụ nữ thì giày dép quần áo, tóc tai sao cho tươm tất, để “người xưa” và bạn bè bớt ngỡ ngàng khi gặp lại. Chỉ chừng ấy thôi mà tất bật rộn ràng.
Giờ khởi hành cũng đã đến, chuyến xe chở đầy tiếng cười. Không còn khoảng cách giữa các khóa, mặc dù trên xe có sự góp mặt của đồng môn từ Khóa 2 đến khóa 13, bên xe kia còn có anh Giai khóa 1, như vậy chuyến đi lần này niềm vui hội ngộ được nhân lên. Tôi nhghĩ vậy. Những ông nội, bà ngoại như chim sổ lồng tha hồ tung cánh bay.
***
Khách sạn Quy Nhơn được xây trên nền dinh hoàng hậu ngày trước, thoáng mát, rộng rãi. Sauk hi nhận phòng, mọi người hối hả chuẩn bị bát phố. Anh bạn Trần Đình Mỹ, Hứa Tự Đàm đã chu đáo đưa ôtô đến khách sạn đón và đưa chúng tôi dạo quanh thành phố. Quy Nhơn đã đổi thay nhiều. Đường vòng quanh biển tấp nập đông vui. Cạnh eo Nín Thở bây giờ là công viên cỏ hoa tươi đẹp. Chúng tôi tranh nhau nói đủ mọi chuyện trên trời dưới đất và qua cửa xe, chúng tôi không còn nhận ra phố xá ngày xưa…
Sáng hôm sau chúng tôi viếng bảo tàng người anh hùng áo vải của đất võ Bình Định. Bồi hồi nghe tiếng trống trận Quang Trung rền vang sông núi. Khí phách oai hùng của một thời chống giặc giữ nước vang mãi nghìn thu.
Chiều nay( 12/5) sân trường Đại học Quy Nhơn rực rỡ sắc màu và xôn xao tiếng nói cười sủa gần 1000 giáo sinh từ khắp các tỉnh thành về hội ngộ. Vội vả nói, vội vả cười, vội vả thăm hỏi, vội vả tìm nhau. Gặp lại ban xưa (có cả người xưa) tay bắt mặt mừng vui không kể xiết.
Đi loanh quanh tìm lại chốn xưa, khu nội trú không thay đổi mấy, nằm phía sau khối nhà mới. Vẫn tường vôi vàng, vẫn hành lang dài nhung nhớ . Chỉ có tấm bảng : “ Chỉ có nữ giáo sinh nội trú mới được vượt qua giới hạn này” là không còn nữa. Chị Chắc , chị Diệp, chị Yến, chị Vân, chị Phúc và Thanh, Hà…bước ngập ngừng trên những bậc cấp ngày xưa. Bao nhiêu kỷ niệm ùa về. văng vẳng đâu đây tiếng cười giòn tan của những cô gái thanh xuân và giọng nói “đa tỉnh thành “ vẫn còn lưu lại trong từng góc phòng từng ô cửa..
Tối nay, đại sảnh của khách sạn Hải Âu đông nghịt người, số người về dự gấp đôi số người dự kiến. Buổi giao lưu diễn ra không suông sẻ như mong đợi. Mặc dù đã cố gắng hết sức, ai nấy đều mướt mồ hôi, nhưng ban tổ chức cũng không giải quyết được nên đành xin lỗi anh chị em. Chúng tôi cũng rất ái ngại vì chẳng giúp được gì. Nhưng tôi nghĩ rằng được gặp nhau là quý, một chút trở ngại đó có đáng gì so với niềm vui hội ngộ.
Xin cảm ơn trưởng đoàn đã nhanh trí giải quyết ổn thỏa cho đoàn Đà Nẵng chúng ta
Lạ thật, bảy năm trung học thật dài nhưng sao không ấm áp thân tình bằng hai năm Sư Phạm. Có lẽ sau 18 tuổi những mơ mộng, những hoài bảo hằn sâu hơn trong tâm hồn của tất cả chúng tôi
Trên đường về chúng tôi thầm tiếc, ước gì thời gian gặp gỡ dài thêm chút nữa để chúng tôi có thể nói hết những điều đã giấu kín trong lòng suốt bốn chục năm qua
Ôi. Quy Nhơn, một thời yêu dấu, một thủa mộng mơ. Thành phố biển xanh mêmh mông sóng vỗ ghi dấu một thời tươi đẹp của tuổi đôi mươi.
Xin giả từ ,giả từ trong lưu luyến và bâng khuâng tự hỏi : Biết có còn gặp lại?.
Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014
Bóng đổ ngậm ngùi
Đan Thanh
Bỗng chốc anh đi vào cõi khác
Vô lý như sông chảy ngược dòng
Âm và dương có biên giới nào không?
Mà không kịp ngoái nhìn lần cuối
Không kịp bước đi trên con đường mưa bụi
Không kịp nghe tiếng chuông trầm tịch chùa xa
Không kịp nhìn vườn xưa lặng lẽ nở hoa
Không kịp nói với nhau một câu từ biệt
Hoa ngọc lan nhớ hoàng hôn tha thiết
Chiều lạnh buồn trong mưa xót xa rơi
Rồi mùa đông nghiêm nghị của đất trời
Thời gian gõ những nhịp buồn xuân đến
Nghe ve hát phượng nở bừng trong nắng
Hoa cúc mang mùa xuân đến vàng tươi
Chỉ mình tôi thảng thốt lặng bên đời
Để mùa đến mùa qua đi hờ hững
Một chút nắng chiều hôm còn vương vấn
Một cành khô thương nhớ lá khôn nguôi
Và đường xưa cây đổ bóng ngậm ngùi
Đếm xuôi ngược cứ thấy dư mình mãi
Trăng ngẩn ngơ gió thẩn thờ ái ngại
Sợ chạm vào ký ức một chiều mưa
Sông đã xa khơi mà bến mãi còn chờ
Mây hỏi đường bay còn tôi hỏi bóng
Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014
NHỚ VỀ THẦY HIỆU TRƯỞNG
Irene.
Cho đến bây giờ, sau bao năm tháng đã trôi qua, mỗi khi bồi hồi nhớ lại khoảng thời gian đèn sách là tôi lại thấy dấy lên trong lòng một nỗi êm đềm như một bức tranh đẹp với vô số sắc màu tươi sáng hài hòa kèm theo những giai điệu dịu dàng .
Trong đó khoảng thời gian học Sư Phạm là khoảng thời gian khắc ghi trong tôi dấu ấn sâu đậm nhất. Tôi không thể nào quên được những người thầy, người cô lần lượt đi qua, đi qua để lại trong tôi những mảng kiến thức bổ ích và hữu dụng. Nó như những đóa hoa tươi tắn khoe sắc trong vườn hoa tri thức của tôi. Để rồi tôi ôm ấp, mang nó theo bên người áp dụng suốt cuộc đời này.
Ngôi trường đẹp. Không gian yên bình. Không khí mô phạm. Các thầy giáo, cô giáo hiền hòa đức độ bên cạnh một thầy Hiệu trưởng chuẩn mực, đầy tâm huyết.
Mùa thu năm 1972, khi mới bỡ ngỡ bước chân vào trường Sư phạm, tôi đã gặp và nghe thầy Hiệu trưởng ân cần nói với khóa chúng tôi trong ngày khai trường:
…Mỗi công dân, tùy theo cương vị của mình đều có bổn phận góp phần vào việc kiến quốc đó. Một trong những nhiệm vụ khiêm tốn nhưng lại rất thiết yếu cho sự tồn hưng của bất cứ cộng đồng quốc gia nào là việc khai hóa dân tâm, dân trí, là nghề dạy học mà Anh Chị Em đang chuẩn bị hành trang để bước vào…
Vào những khóa tôi theo học, có nhiều giáo sinh vì hoàn cảnh bắt buộc phải thi vào sư phạm. Biết được vậy, thầy đã nhắn nhủ rất chân tình.
…Khi đã vào trường Sư Phạm là các anh chị phải xác định là nghề mình chọn. Khi đã chọn thì phải cố gắng theo nghề còn nếu không thích thì ngay bây giờ có thể dừng lại cũng còn kịp. Chứ đừng mang những điều bực bội ở đâu đó vào trường này…
Sau đó thỉnh thoảng tôi gặp lại thầy trong sân trường. Thầy Hiệu Trưởng Trần văn Mẫn với khuôn mặt nghiêm nghị nhưng vui tươi, ánh mắt hiền từ thân thiện, giọng nói trầm ấm…Tuy tôi không được học thầy nhưng niềm kính trọng đã có trong tôi từ trước khi tôi chưa bước chân vào trường. Qua những câu chuyện kể của các chị tôi học ở những khóa trước. Và cũng trong những câu chuyện đó tôi được biết nhiều về thầy với niềm kính trọng vô cùng.
Theo lời chị tôi nói thì sau chuyến tu nghiệp ở Hoa Kỳ về, thầy Mẫn được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Sư phạm vào niên khóa 1967-1968 cùng thời điểm với khóa 6, khóa 7. Trước đó thầy đã làm giám học của trường Sư phạm.
Những câu chuyện về thầy Hiệu trưởng thì nhiều nhưng một vài câu chuyện đã ghi dấu trong tôi cho đến tận bây giờ.
Thầy kể cho các giáo sinh trong những giờ dạy:
“…Vào những chiều thứ bảy hay chủ nhật tôi thường lái xe đi Lễ. Trên đường về, gặp các cô giáo sinh đi phố hay chợ về. Các cô tay xách, tay mang đồ đạc lỉnh kỉnh rất nặng. Tôi thường dừng xe lại để chở dùm…có cô đi nhưng phần nhiều là các cô ngại nên từ chối…Theo tôi các cô không việc gì phải e ngại vì chuyện giúp nhau là chuyện bình thường cần phải có trong cuộc sống này…”
“…Trường mình trồng rất nhiều hoa sứ. Các chị nhất là các chị ở nội trú cứ đồn nhau rằng mấy cây sứ đó có “ma” nên ai cũng sợ... Nhiều hôm tôi rời phòng họp về nhà vào khoảng một, hai giờ khuya. Khi đi ngang qua vườn sứ, tôi cố gắng nhìn thật kỹ nhưng có thấy gì đâu? Cho nên không có ma đâu các chị đừng sợ…”
Mỗi lần có dịp vào thăm hai khu nội trú nam và nữ, thầy Hiệu Trưởng luôn khuyên :
…các anh chị nên cố gắng rèn luyện kiến thức, cần phải học thêm nữa. Kiến thức không bao giờ thừa lúc nào cũng rất cần cho mỗi chúng ta sau này khi ra xã hội…
Thầy thường nói với các nam giáo sinh:
…Người ta thường nói rằng: Nam mà vào sư phạm thì “yếu”. Chúng ta chấp nhận cho các chị giáo sinh vì họ là phái yếu. Các chị thường mơ mộng yếu mềm vì các chị có người yêu ở xa, nên trong những đêm mưa, một mình trong nội trú thao thức nhớ đến người yêu giờ này đang đóng quân ở một tiền đồn heo hút nào đó? Nhưng các anh nam thì không thể có những tư tưởng yếu đuối, không được ủy mị mà phải có ý chí, mạnh mẽ lên!...
Thầy Hiệu trưởng rất yêu thích văn nghệ, nhất là những bản nhạc về dân ca, những bản nhạc tiền chiến hay những bản nhạc ca tụng quê hương đất nước. Trong đó đặc biệt thầy thích nhất là bài hát Nắng Chiều của Lê Trọng Nguyễn. Vì biết thầy thích nên cứ vào mỗi đêm thi văn nghệ của trường Sư phạm, ban nhạc thường đánh lên giai điệu của bản nhạc này để dạo nhạc mở đầu cho buổi biễu diễn.
Bài hát viết theo điệu Rumba, giai điệu rộn rã phối hợp giữa ngũ cung và thất cung nhưng nội dung thì phảng phất nét buồn.
“Qua bến nước xưa lá hoa về chiều
Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa
Khi đến cuối thôn chân bước không hồn
Nhớ sao là nhớ đến người ngày thơ.
Anh nhớ trước đây dáng em gầy gầy
Dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh
Anh nhớ bước em khi nắng vương thềm
Má em mầu ngà tóc thề nhẹ vương…”
Ai đó đã nói: “Nhìn sở thích âm nhạc của một người ta sẽ biết được tâm hồn của họ”. Thật thế, qua đó tôi được biết thêm về thầy Hiệu Trưởng trường tôi có một tâm hồn nhẹ nhàng, dạt dào văn thơ đầy chất trữ tình lãng mạn, thầy còn là một người yêu quê hương đất nước tha thiết.
CÂU CHUYỆN LỬA TÀN
Của ông Hiệu Trưởng trường Sư Phạm Quy Nhơn nói với các giáo sinh khóa 11 trong ĐÊM MÃN KHÓA hạ tuần tháng 6 năm 1974.
Anh chị em giáo sinh khóa 11 thân mến.
Đêm đã khuya, lửa cũng gần tắt, trước khi chia tay, tôi muốn nói với anh chị em đôi lời trong câu chuyện lửa tàn đêm nay.
Nhìn khu trường với những hàng thông trầm lặng, từng chứng kiến bao bước chân anh chị em đi về. Những công viên hoa sứ nở muộn, những dãy hành lang heo hút gió đông hay phơi phới gió hè, dẫn vào những căn phòng nội trú, rộn ràng bao buồn vui đèn sách và tình bạn ý quê. Nghe mỗi khi đêm xuống từ lòng đại dương sóng xa vọng lại nhiều thương nhớ bâng khuâng, ưu tư vời vợi. Những hình ảnh và âm thanh đó như thì thầm nhắc lại bao kỷ niệm vui buồn Anh Chị Em đã có nơi đây, gợi lại bao sinh hoạt đã cùng nhau tham dự: nào những tối cuối tuần ngồi bên chén trà “hội hữu” hay “bạn đường” nghe thơ nhạc hay nghe nhau kể lễ chuyện đời. Nào những ngày đi công tác xã hội hay thực tập giáo dục cộng đồng bận rộn với dân quê, những buổi du ngoạn tươi mát ý đời, những đêm văn nghệ rộn ràng niềm vui, cũng như nghững sáng chiều thường xuyên thảo luận, học tập về chuyên môn…tất cả đều nói lên những tâm tình Anh Chị Em đã có với nhau, với ngôi trường này.
Sau đêm nay, Anh Chị Em sẽ rời ghế nhà trường chia tay về hè để sau đó vào đờichứ không còn trở lại trường cũ như mùa thu năm trước. Chúng tôi cầu cúc Anh Chị em gặp nhiều niềm vui trong đời, những niềm vui sâu xa từ trong lòng mà có hơn là từ bên ngoài mà nên.
Tục ngữ ta có câu: “Câu chuyện nên quen, chuyến đò nên nghĩa”. Anh Chị Em đã cùng nhau đi chung một chuyến đò dài. Nay tuy chưa đến bến cùng của sông nước nhưng mỗi người phải chia tay sang những con thuyền khác để lại tiếp tục hành trình dẫn tới quê hương xa.
Giây phút phân ly nào chẳng đượm buồn và đó cũng là thân phận con người trên cõi thế. Nhưng như trăng khuyết rồi tròn, ly hợp cũng là lẽ thường của cuộc sống, miễn sao trong cách xa mà vẫn không xa cách, và miễn sao mỗi đổi thay đều mang mãi một chiều hướng. Anh Chị Em hãy chấp nhận nỗi buồncách xa trong tim, vẫn còn những niềm vui gặp gỡ đây đó trên bước đường nghề nghiệp, ở một nẻo nào trên dải đất quê hương này.
Đời Anh Chị Em còn dài, dài đủ để không uổng công thắp sáng niềm tin trong đêm tối thiếu những ánh trăng sao soi dẫn bước chân Anh Chị Em đi.
Tuổi Anh chị em còn trẻ, quá trẻ để có đủ thời gian tự làm lấy cho mình những gì mình mơ ước. Với tuổi đôi mươi, chẳng có gì là muộn. Tất cả đang chờ đón Anh Chị Em: Tình yêu để yêu, tình bạn để thương, tình quê hương để nhớ, những nguyện vọng để thực hiện, nghề nghiệp để phụng sự…nghĩa là cả một cuộc đời để sống, để xây lên hoặc nếu cần để dựng lại.
Mỗi thế hệ có những vui buồn, những ưu tư riêng và mặc dầu thế hệ này có liên quan với thế hệ khác, nhưng không nên cho rằng thế hệ này không làm được gì hơn thế hệ khác. Than trách hay quy lỗi không phải là triết lý đẹp của một hướng sống cao. Mỗi người trẻ hãy tự nói với mình “dậy mà đi” dù quê hương có đang đổ nát mênh mang vì bom đạn vẫn chưa thôi trên mảnh đất nhỏ bé này, dù xã hội có đang phân hóa tàn tạ vì cảnh tương tàn thê lương đã kéo dài hơn hai mươi năm qua.
Anh Chị em hãy “dậy mà đi”, đi từ “đêm bây giờ” để đến “đêm mai”, như Trịnh Công Sơn thuộc khóa đàn anh của Anh Chị Em đã hát lên rất chân tình:
“Đêm bây giờ đêm quá hư vô
Ôi con người mang trái tim khô
Đêm bây giờ thắp sáng âu lo
Hai mươi năm buồn vui hững hờ
Đêm thôi dài cho mai này
Người Việt hái lúa ngoài đồng chín
Đêm no lành đêm thanh bình
Người Việt sống như chưa bao giờ”.
Nói như vậy “đêm bây giờ” dù “quá hư vô” chỉ “mang trái tim khô” với những “âu lo” và “buồn vui hững hờ” cũng chẳng có thể làm cho Anh Chị Em buồn thảm, vì rằng đêm mai này mới là của Anh Chị Em để hướng tới, để xây lên, để dựng lại, để “sống như chưa bao giờ”.
Tôi nhắc lại ý vừa diễn tả: Anh Chị Em hãy dậy mà đi, lạc quan vào đời và tích cực góp phần mình vào việc xây dựng đời.
Trước khi chia tay tôi cũng muốn nói lại với Anh Chị Em một ước mong chan chứa ưu tư này của trường. Chúng tôi ước mong rằng dù hoàn cảnh đời mỗi người chúng ta như thế nào, khi đã dấn thân vào một nghề là chúng ta phải chọn lấy cho mình một hướng đi đầy ý thức. làm thân con người chẳng ai có tự do vô điều kiện, ngoài hoàn cảnh giới hạn. Cho nên giá trị của con người tự do là chấp nhận cái mình chọn hoặc chấp nhận cái mình phải chọn và như vậy giá trị ở thái độ chọn hơn là ở điều chọn hay phải chọn.
Tôi tin rằng sau hai năm học ở trường này, Anh Chị Em đã thấy rõ hướng đi phải có của cuộc đời. Mai đây trên bước đường phụng sự, cầu chúc Anh Chị Em ngày càng vui, yêu nghề và làm được những gì Anh Chị Em muốn làm trong khả năng của mình.
Tôi tin rằng trong một tương lai không xa, đất nước chúng ta phải được thanh bình. Khi đó, và ngay cả khi này, cánh đồng văn hóa giáo dục cần nhiều nông phu, những người đổ mồ hôi để cày, bừa, gieo, cấy, đợi mùa gặt đến đem vui tươi, no ấm cho các xóm làng thân yêu.
Đêm đã khuya, lửa cũng gần tắt, tôi đã nói gì với Anh Chị Em trong câu chuyện lửa tàn đêm nay?
Một lần nữa, nhìn lại khu trường với những hàng thông trầm lặng, từng chứng kiến bao bước chân Anh Chị Em đi về, những công viên hoa sứ nở muộn, những dãy hành lang heo hút gió đông hay phơi phới gió hè dẫn vào những căn phòng nội trú rộn ràng bao buồn vui đèn sách và tình bạn ý quê, nghe mỗi khi đêm xuống từ lòng đại dương sóng xa vọng lại nhiều thương nhớ bâng khuâng, ưu tư vời vợi.
Những hình ảnh và âm thanh đó như vẫn thì thầm nhắc lại bao kỷ niệm vui buồn Anh Chị Em đã có với nhau ở ngôi trường này.
Mai đây trên vạn nẻo đường đời có khi nào tưởng lại quãng thời gian cuối cùng của những ngày đèn sách, có lẽ những hình ảnh và âm thanh trên sẽ còn đậm ít nhiều nét sống vấn vương bên lòng Anh Chị Em chứ không đến nỗi tàn phai như những vang bóng một thời bị chìm quên vào dĩ vãng.
Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014
“ TRÁCH NGƯỜI ĐI “
Ky Nguyen
Đi lại “ đường xưa” nhớ bạn cũ.
“ Mơ khúc tương phùng” khó lắm thay.
“ Lối về xóm nhỏ” còn in dấu.
“ Kỷ niệm” buồn vui - nhớ, nhớ hoài.
Cho dẫu đã “ nghìn trùng xa cách”
“ Nỗi lòng” thương nhớ khó nguôi ngoai
“ Dư âm” một thuở - hoài đeo đẳng
“ Màu nắng sân trường” mãi vấn vương…
“ Vó câu muôn dặm” – người rong ruổi.
“ Về mái nhà xưa” – biết khi nao?
“ Hẹn hò” một kiếp – thôi đành lỡ.
“ Trên ngọn tình sầu” – tiếc xót xa.
“ Bài thánh ca buồn” lại réo rắt.
“ Đêm đông” phố núi – sầu hoen mi.
“ Người đi, ừ nhỉ, người đi thật”
“ Đợi “ chờ chi nữa – uổng xuân xanh.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)