Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

Thơ - Bạch Xuân Lộc.


Có Biển 1

Có mấy khi ta mùa đông ra biển,
Gió mưa buồn lạnh xé thịt cắt da,
Nếu chẳng may biển chôn lấp đời ta,
Vẫn là phước ta muôn đời có biển.
Bên cát biển sóng vổ về tha thiết,
Da diết yêu thương, muôn kiếp mặn nồng,
Khi yên vui, lúc sóng vỗ cát tung,
Vẫn giữ mãi mối tình chung biển cát.
 
08/2008
 
 
Có Biển 2

Lê đôi chân trên cát mền xào xạc,
Thả hồn mình hòa cùng biển mênh mông,
Chờ mùa lên cho trời nước xanh trong,
Và nắng ấm làm hồng bao mong ước.

Gió reo như trao lời đưa của nước,
Vốn rộn ràng vẫn tập nập âm vang,
Vốn trầm ngâm vẫn mộng mị- mơ màng,
Vốn thư thả vẫn dịu dàng-mềm mại.

Dấu yêu ơi,ta một đời khờ dại,
Bởi yêu em như yêu biển muôn trùng,
Bởi yêu em,trân quí nét thủy chung,
Đã chối bỏ cho đời thêm phiền lụy.

Mà như thể có phải ta ích kỷ,
Biết yêu em mà tránh nhận khổ đau,
Thì thế nhân sao không khỏi u sầu?
Không oán trách ta là người bội bạc.

24/04/2011 
Bạch Xuân Lộc

Hình Ảnh Sinh Hoạt của Khóa 10 SPQN

BBT: Chúng tôi vừa nhận được thư và một số hình ảnh cũ của khóa 10 SPQN, do chị Nguyễn Thị Hương gởi về. Những hình ảnh quá tuyệt, đầy ắp kỷ niệm của những ngày cùng nhau sinh hoạt... xin rất cám ơn chị Hương đã cộng tác và gởi về cho chúng tôi những hình ảnh quí giá này.
Thân ái.

Kính gởi ban tổ chức
Đây là những hình ảnh xưa cũ mà tôi còn lưu giữ được, vở kịch thơ Huyền Trân Công Chúa do hai nội trú nam và nữ kết hợp với trường cùng diễn vào năm 1972 đã gây được nhiều sự chú ý và được ông Tỉnh Trưởng tỉnh Bình Định Nguyễn Văn Chức rất khen ngợi, hy vọng các bạn diễn khác còn lưu niệm được những hình ảnh về vở kịch thơ này.
Tôi gởi thêm một số hình ảnh kỉ niệm những ngày còn học ớ SPQN,. Chúc các anh nhiều sức khỏe để hoạt động cho trang Web của trường ngày càng phong phú.
                                                                       Nguyễn Thị Hương  K10

Giáo sinh lớp Nhị 6 trước sân trường

Tàu hải quân chở GS đi Cù Lao Xanh
cắm trại ở Cù Lao Xanh1972
G. Sinh trước sân trường.

Trong khuôn viên Nội trú Nữ

Một góc Nội trú Nữ
vở nhạc kịch Huyền Trân Công Chúa tổ chức tại giảng đường SP 1972 (do GS K10 trình diễn)

một vai trong vở kịch Huyền Trân công chúa

Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

Thơ - Vũ Hùng K10



Quy Nhơn ngày hội ngộ 

(Hướng đến kỉ niệm 50 năm ngày thành lập trường SPQN ( 1962-2012) và chuyến về thăm trường cũ ( từ 11-13/5/2012)

Đâu có phải xứ thần tiên nào cả
Đường tơ dệt bao tháng ngày vất vả
Tia nắng ấm cho mùa xuân rộn rã
Ở nơi đó , còn bao điều mới lạ
Em hãy về -đón nhận ánh sao khuya
Các con chữ-theo chân anh từ ấy
Khắp phố phường thôn bản mãi xa xôi
Quê hương mình phải đẹp hẳn lên thôi
Anh đã thấy những điều mình học hỏi
Để lại cho đời mật ngọt tình thương
Dẫu chông gai hay ngang trái đời thường
Những bất cập ,chông chênh đầy phiền muộn
Hỡi trái đắng theo ta vào dĩ vãng
Vẫn còn lại đêm bài ca sư phạm
Ánh sao nào tỏa khắp vùng tăm tối
Miền cao nguyên hay những nơi lầy lội
Tiếng hát trẻ thơ bao người mong đợi…
Này người bạn ở nửa vòng trái đất
Nước mắt rưng rưng mỗi độ xuân về 
Nhớ lúc chia tay , nụ cười mãn khóa
Ở xứ người , vẫn nhớ mãi ngàn hoa …
                       **
Em Quy Nhơn mừng vui ngày hội ngộ
Đã qua rồi những cơn sóng nhấp nhô
Ai mất, còn,nửa thế kỷ ,hỏi ai ?
Nụ hồng đọng ,trong tim ta thắm mãi …

Thanh yên – Dương Đàn
(Hội viên CLB sáng tác VHNT VN )
Võ Hùng (Nhị 9-K10 )

Nếu …

Nếu mai Thầy không đến trường
Lá bàng khô vẫn rụng
Bầu trời vẫn màu xanh
Đêm qua có kẻ độc hành
 Bâng khuâng nhớ bạn , còn thương nụ cười .

Nếu mai thầy không đến trường
Ai hỏi thăm em khi trời trở lạnh
Ai đến với em khi lớp học ồn
Lá vàng có một nụ hoa
Chiều hoàng hôn xuống , vừa qua hiên nhà

Nếu mai thầy không đến trường
Ai nói với em những câu chuyện thường ngày
Những khó khăn , những điều trăn trở
Chuyện học hành và cả chuyện ngày mai .

Nếu mai Thầy không đến trường
Hàng cây lặng lẽ , giọt sương âm thầm
Giọt buồn thôi đọng trên mi
Sông xưa còn đó , người đi chưa về .

Thanh Yên – Dương Đàn
(Hội viên CLB sáng tác VHNT VM )
(Nhị 9 – K9 )

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

Món Quà


Chồng tôi hay cười, ăn nói nhẹ nhàng và thích đùa tếu. Đối với anh chuyện gì cũng nhẹ như bông. Tôi thì khác hẳn,  dù cũng giống anh, ăn nói nhẹ nhàng nhưng việc gì  vào tay tôi thì cũng phải cho đàng hoàng và chỉn chu.  Anh hay nói tôi quan trọng hoá vấn đề.
Hai đứa quen nhau sau năm 75 khi cùng dạy một trường. Tôi hơn anh hai tuổi nên ngày ấy nói chuyện với nhau đều xưng tên và tôi đã không hề ngờ rằng anh chàng nhỏ tuổi hơn này sau đó là chồng tôi.
Đến một ngày, anh mời tôi đi uống cà phê và nói:
-         Ba Xuân biết Thu. Ba nói ba má Xuân biết gia đình Thu rất rõ.
Tôi ngạc nhiên:
      - Vậy à?
Anh cười cười nói tiếp:
-         Ba còn nói ba má Xuân muốn làm sui với ba má Thu đó!
Tôi tiếp tục ngạc nhiên:
-         Hả?  Thiệt hông? Đừng có giỡn chuyện này à nghen!
-         Thiệt mà! Hổng tin bữa nào Thu hỏi ba Xuân coi!
Tôi nghĩ thầm hổng biết anh chàng này đang nói giỡn hay là đang tỏ tình với mình đây.  Làm sao dám đem người lớn ra mà nói giỡn, còn tỏ tình mà kiểu này thì thiệt là…kì cục!Tôi ngồi im không trả lời. Chặp sau anh hỏi, giọng có phần bối rối:
-         Thu…Thu…thấy sao? Xuân đang chờ Thu trả lời!
Tôi đáp nhanh:
-         Bất ngờ quá. Thu cũng không biết nói sao!
Bỗng nhớ ra một điều quan trọng, tôi nhìn thằng vào anh. Lúc ấy mặt anh đỏ như  gấc. Tôi cũng thấy mặt mũi mình nóng ran lên. Tôi ngập ngừng hỏi nhỏ:
-         Đó là …ý của ba má Xuân! Thu…Thu…muốn biết  còn ý của Xuân thì  sao kìa!
Hình như chỉ chờ có câu hỏi đó. Anh chàng vội vàng trả lời và tự nhiên bị…cà lăm:
-         Ồ! Xuân…Xuân…muốn Thu…muốn Thu…từ…từ…lâu rồi!
Tôi bật cười. Anh cũng cười. Rồi cả hai cùng cười to. Tôi hẹn một tuần sau trả lời! Và thế là sau đó chúng tôi thành vợ chồng!

Sau này tôi mới biết được đó là lần đầu tiên và duy nhất anh tỏ tình và cầu hôn theo kiểu ấy. Anh bạo gan ngỏ ý với tôi đúng là nhờ sự động viên và cố vấn của cha chồng tôi. Trước đó cũng có nhiều cô thích anh, trong số đó có một cô tên Sa rất yêu anh và tấn công anh bằng cách lấy lòng má anh. Hằng ngày cô đến phụ má anh dọn hàng ra chợ bán. Hồi đó má anh có gian hàng bán đồ khô ở Chợ Lớn. Ngày Chợ Lớn Quy Nhơn bị cháy, cô chạy đến khóc với má anh và cùng ngồi với má anh ở chợ để bươi lại đống tro than của gian hàng hầu kiếm lại chút gì còn sót! Anh kể lúc ấy anh cũng cảm động lắm nhưng chẳng thấy thích Sa có lẽ vì anh nghĩ ai lại cọc đi tìm trâu! Tính anh cũng nhút nhát. Bông lơn là vậy nhưng khi đụng tới chuyện con gái là im thin thít. Nghe nói sau này cô Sa có chồng và cùng chồng vượt biên sang Mỹ, hai vợ chồng không có con và họ đã li dị.

Chúng tôi có hai con trai. Cuộc sống của vợ chồng tôi nói chung cũng ổn, dù rất nhiều khi tôi  thấy mệt mỏi vì tính vô lo của chồng. Có khi tôi có cảm giác mình là người mẹ đơn thân có ba người con trai. Sau giờ dạy anh không bao giờ từ chối những chầu cà phê hay những cuộc vui lai rai với bạn bè. Vì anh vui tính nên anh có rất nhiều bạn bè. Những việc trong ngoài gia đình đều do một tay tôi bươn chải, từ việc dạy học, kiếm sống cho đến việc quán xuyến trong nhà. Những khi tôi phàn nàn thì anh  không giận mà chỉ nói vì em lo ngon lành hơn anh nên anh để cho em lo luôn! Chán thật! Nhưng cũng may là tôi luôn tự an ủi mình, thôi kệ, dù sao anh cũng không có thói trăng hoa và vũ phu như một số chồng của bạn tôi. Anh cũng không khó chịu xét nét bắt bẻ mà hay chọc cho tôi cười xoà mỗi khi tôi bực mình. Dù sao anh cũng là một người chồng chung thuỷ và là một người cha dễ chịu và yêu con hết mực!

Một hôm, sau khi uống cà phê với bạn bè, anh hí hửng về nhà xoè ra trước mặt tôi hai tờ giấy 100USD ( lúc ấy tương đương khoảng  bốn chỉ vàng ). Anh nói:
-         Em cầm tiền này muốn mua sắm gì trong nhà thì mua.  Anh thấy mình chưa có máy giặt và đầu máy video đó!
Tôi ngạc nhiên:
-         Tiền đô-la ở đâu anh có vậy?
Anh cười hể hả:
-         Tiền đô-la thì là ở Mỹ chớ ở đâu!
Tôi cau mày:
-         Thôi đừng giỡn nữa Tiền này ai đưa cho anh?
Anh ngập ngừng một hồi rồi nói:
-         Anh mới gặp Sa. Cổ mới ở Mỹ về và tình cờ gặp anh ở quán cà phê. Cổ nói muốn tặng anh một món quà mà lâu quá rồi nên không biết anh thích gì! Cô bảo đưa món tiền này về đưa em nhờ em mua sắm giùm cổ món  gì còn thiếu trong nhà mình. Coi như là tấm lòng của cổ!
Tôi sững sờ, cảm thấy người lạnh ngắt! Và đó là lần đầu tiên tôi to tiếng với chồng:
       - Nhà này nghèo thiệt, còn thiếu nhiều thứ thiệt. Nhưng tôi không cần món quà này! Anh cầm tiền này đi làm gì đó thì tuỳ anh, tôi không cần biết! Thật không thể hiểu nỗi! Anh nghĩ sao mà cầm món tiền này từ tay cô Sa , mà lại còn đem về đưa cho tôi nữa!!!

Trần Thảo Nguyên ( 26/3/2012

Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

the top 25 immigrants in Canada!


 BBT: Chúng tôi vừa nhận được thư của bạn Trần Thiên Ái, là con trai của thầy Trần Văn Mẫn, xin đăng lại thư cùng bài viết của báo Nguồn Việt viết về những nỗ lực và thành tựu của Ái để có thể dẫn đến thành công ngày hôm nay - lọt vào vòng chung kết Canada’s Top 25 Immigrants -
Xin chúc mừng đến Thầy Cô Trần Văn Mẫn, bạn Thiên Ái và cầu chúc bạn đạt được kết quả cao nhất trong vòng bầu chọn này.

...........


"Kinh thua BBT,

Dau thu em xin thanh that cam on BBT da viet ve nomination cho giai thuong 25 Nguoi Di Dan Hang Dau Canda tren trang mang SPQN.  Em cam thay that vinh du khi BBT da viet ve nomination cua em. 

Em xin gui den toa soan bai viet moi nhat ve viec em duoc may man duoc chon lua vao vong chung ket (tu hon 500 nguoi duoc ung cu).  Bai nay duoc dang tren Nguyet San Nguon Song tai Oklahoma, Hoa Ky. 

Hien tai hiep hoi Alumni cua truong dai hoc hang dau Canada McGill University, noi ma em da tot nghiep nganh cong tac xa hoi voi bang danh du (Honors), cung dang giup em van dong voi nhieu ngan thanh vien cua ho de bo phieu online cho em.  Chieu thu Tu (March 29), em se co phong van voi dai truyen hinh SBTN tai Toronto. 

Mot lan nua, cam on BBT rat nhieu.  Em se den California vao April 04 de tham Ba Ma em.  Em cung se den tham co Hieu, lan dau tien sau hon 34 nam.  Em hy vong se duoc thua chuyen voi BBT nhieu hon khi em co dip sang California lan nay.

Kinh,
Tran Thien Ai"

.................


Tại đất nước Canada, từ năm 2009 có một giải thưởng được lập ra nhằm vinh danh những người dân nhập cư vào Canada (immigrants) về các thành tích hoạt động cho cộng đồng và những cống hiến cho đất nước Canada. Giải thưởng này công nhận những thành tựu của những người nhập cư từ mọi tầng lớp xã hội. Mỗi năm số người được đề cử từ các cơ quan hoặc cá nhân khoảng hơn 800 người. Sau khi sơ khảo, 75 người sẽ được chọn vào vòng chung kết. 25 trong số những người được chọn vào chung kết sẽ được trao giải Canada’s Top 25 Immigrants. Giải thưởng là 500 dollar Canada, nhưng giá trị tinh thần và niềm tự hào cho cộng đồng thì vô giá.
Một niềm vinh hạnh cho cộng đồng người Việt tại Canada nói riêng và cộng đồng người Việt hải ngoại nói chung là trong số những người được chọn vào vòng chung kết cho 2012 Canada’s Top 25 Immigrants có anh Trần Thiên Ái, người Việt Nam đầu tiên được bình chọn.
Trần Thiên Ái bắt đầu ra nước ngoài khi anh vừa 20 tuổi. Trong suốt hơn 12 năm đăng đẳng tại trại tỵ nạn Philippines, đối mặt với muôn vàn thử thách, anh luôn giữ một tinh thần lạc quan, tận dụng khả năng ngoại ngữ của mình để hướng dẫn, giúp đỡ những người Việt tỵ nạn đồng hương trong trại học tiếng Anh. Từ đó, Thiên Ái bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp xuất sắc của mình trong công tác xã hội với tư cách là một cố vấn cho Community Family Services, một tổ chức nhân đạo quốc tế có trụ sở tại Philippines. Mặc dù bận rộn với công việc thiện nguyện, bất chấp bao nhiêu khó khăn vì là một người tỵ nạn không quốc tịch (stateless refugee), anh Thiên Ái vẫn cố gắng theo đuổi chương trình học chuyên ngành tâm lý học tại Trinity College và giành được một suất học bổng cho thành tích học tập của mình
Vào năm 2001, Thiên Ái đến được Canada. Bắt đầu từ một nhân viên tại một kho hàng của một công ty tại Montreal, chỉ sau bốn năm anh đã trở thành Human Resources Coordinator của công ty. Từ một người đã từng tuyệt vọng tìm kiếm một công việc cho chính mình, anh trở thành một người trong những người điều hành, phụ trách việc tuyển dụng nhân viên cho công ty.
Tuy làm việc full time, anh Thiên Ái vẫn dành thời gian để theo học ngành công tác xã hội (Social Work) tại McGill University và đã tốt nghiệp với bằng danh dự. Được xếp hạng trong số 15% sinh viên ưu tú, anh Thiên Ái được công nhận là một thành viên trọn đời của Golden Key International Honor Society. Năm 2006, Trần Thiên Ái là một trong số 10 sinh viên trên thế giới đã giành được học bổng quốc tế của Golden Key International Honor Society dành cho các thành viên nổi bật đạt được thành tựu học tập xuất sắc trong khi vẫn duy trì tốt các công tác khác ở gia đình và nghề nghiệp. Năm 2007, anh được tạp chí Thời Báo bình chọn là một trong những sinh viên Việt Nam nổi bật tại Quebec để trao học bổng.
Từ 2006 đến 2009 tại Montreal, ở cương vị là một Social Worker, Trần Thiên Ái đã được đánh giá rất cao cho công tác vận động cho quyền lợi của các cụ cao niên từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Trong năm 2007, anh tình nguyện giúp đỡ những người xin tỵ nạn tại Covered Garden, YMCA, Montreal. Đến năm 2008, anh Thiên Ái được bổ nhiệm làm phụ tá một nhà nghiên cứu tại McGill School of Social Work. Vào năm sau, anh đạt giải thưởng Aronoff Sadie của McGill University về kỹ năng lãnh đạo.

Qua những thành quả đạt được Trần Thiên Ái đã được bổ nhiệm làm Giám Đốc Điều Hành của Vietnamese Canadian Federation và Vietnamese Canadian Centre vào năm 2009. Gần đây nhất, anh đã chứng tỏ khả năng của mình trong vai trò nhân viên của Ministry of Community and Safety Correctional Services của cơ quan chính quyền Ontario. Năm 2011, những đóng góp của anh Thiên Ái được công nhận bởi Citizen Advisory Committee, Ottawa Parole, Correctional Services của chính phủ Canada.
Trên cương vị là một Social Worker, anh Ái đã chứng minh kỹ năng của mình trong việc đánh giá nhu cầu của những người dân thuộc các sắc dân khác nhau từ các tình trạng cá nhân đến vấn đề sức khỏe. Điểm mạnh của anh là xác định và phát triển các phương thức thích hợp cho các cộng đồng văn hóa đa dạng, cũng như thảo ra các kế hoạch, tạo điều kiện thuận lợi, và hỗ trợ từng cá nhân và gia đình để xác định vấn đề cần phải làm từ đó phát triển các kế hoạch hành động thích hợp để giúp người dân có được đời sống tốt hơn.
Trần Thiên Ái và những cống hiến của anh cho đất nước Canada là một tấm gương cho người dân trong cộng đồng và những di dân mới nhập cư đang trải qua những bước đầu thử thách như anh đã từng trải qua.
Hiện nay, anh Ái lại tiếp tục lao vào các hoạt động thiện nguyện khác nhau tại Ottawa để giúp gây dựng các cầu nối giữa các cộng đồng và khuyến khích sự giao thoa hòa hợp các nền văn hóa tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả người dân Canada.
Thành tựu của anh Ái là thêm một niềm hãnh diện cho cộng đồng người Việt hải ngoại chúng ta. Nếu quý đồng bào muốn tham gia vào cuộc bỏ phiếu bình chọn cho anh Trần Thiên Ái, quý đồng bào có thể vào website sau để bỏ phiếu:http://canadianimmigrant.ca/canadas-top-25-imms-2012/vote

Người thầy dấu yêu !


          Trí nhớ của Con thuộc dạng không tốt lắm ! Chỉ còn nhớ tên Thầy , Thầy Nở dạy môn Sư Phạm lí thuyết , Thầy không được cao lắm , như hầu hết các Thầy trường SP dạo ấy đều có dáng như thầy  , nhưng sao thật tuyệt vời , một vầng trán rộng ,  một trí tuệ tuyệt hảo , một tâm huyết người Thầy rạng sáng , một hình ảnh suốt đời Con nguyện noi theo . “Không phải mèo khen mèo …” Nhờ Thầy khó (… Cúa 1 ) , Con nhớ như in , bài kiểm tra viết con 18,5 ( điểm 20 ) , Thầy cũng không tin , gọi lên bàn , đứng xuôi tay , đọc trình tự các môn dạy làu làu , Thầy gật đầu mỉm cười , cho về chỗ . Bạn nào hơi vấp , a lê hấp về chỗ ngay , cho nợ , lần sau, liệu hồn , nếu 3 lần không thuộc , cơ may xách gói ra trường sớm , mất dạy cả đời !
          Nhờ vậy 40 năm giảng dạy , 36 năm làm quản lí , kiến thức Thầy dạy , Con nhớ như in , bí chỗ nào , kiến thức xưa soi sáng chỗ ấy , thật tuyệt vời ! Làm hiệu trưởng tiếp nhận hàng trăm giáo sinh ,ra trường trình diện , điều đầu tiên Con trao đổi là :  Anh , chị trình bày  sơ nét về trình tự bài dạy , các em đều chữ thầy trả cho Thầy , lơ mơ câu được câu mất . Bài học tiếng Anh ngày xưa  con còn nhớ … : -Thầy giáo là một nghệ sĩ , nghệ sĩ đứng trên sân khấu thế nào , Thầy giáo đứng trên bục giảng cũng vậy . Kịch bản không thuộc  thì làm sao diễn  tốt được ! làm sao thu hút được khán giả ! Thầy thật chí lí khi yêu cầu giáo sinh phải thuộc nằm lòng trình tự các môn dạy tiểu học .
          Cách đây 5 năm , có dịp trở về Nha Trang thăm trường cũ ngày xưa mình dạy . Tình cờ ,Thăm Thầy Tiền , Chánh thanh tra giáo dục tỉnh Khánh hòa ngày ấy , mới biết Thầy hiện sống tại Thành ,huyện Diên Khánh ,  gần chợ Thanh Minh , nơi ở trọ của Tôi ngày đầu đi dạy .Gặp Thầy một buổi chiều ,Thầy đang tưới cây kiểng , với bước đi khó khăn , Thầy bị tai biến ! Sau trên 30 năm gặp lại , Thầy vẫn như xưa , vẫn ánh mắt như hút hồn người người tiếp xúc , Thầy ân cần hỏi thăm , Thầy rất vui khi nghe tin Tôi còn dạy học , dù tai biến đi lại khó khăn , nhưng Thầy vẫn  nhận dạy phụ đạo  học sinh gỏi tiếng Anh của huyện ( hình như Thầy đã từng du học trời Tây … )
          Hôm nay, qua thông tin của bạn  Thạch , Thầy đã vĩnh viễn ra đi …( hẹn gặp Thầy cõi vĩnh hằng ) …nhưng Thầy vẫn còn in dấu mãi mãi trong con . Suốt đời con không quên công ơn của Thầy . Để trả nợ  ơn Thầy , Con chỉ biết làm tốt nhiệm vụ của mình , mặc dù rất gian nan , nhưng không khác được vì là học trò của thầy ! hai năm nữa , con đường phục vụ sẽ kết thúc , mong sao giữ trọn lời Thầy !!! 

.Suối nho , 27/3/2012.
Võ Thủ Tịnh người học trò của Thầy .

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

MÁI TRƯỜNG XƯA.


                Irene.
        Thương gởi đến chị Nguyễn Thị Hằng khoá 7 SPQN.


          Mùa xuân trôi qua một cách nhẹ nhàng. Ngoài trời, nắng vàng hanh hao gay gắt hơn. Trên cành, những chùm phượng đã lác đác nở. Các chú ve cũng lục đục choàng dậy sau giấc ngủ dài để chuẩn bị cho “ Dàn đồng ca mùa hạ.”
          Từ trường, tôi trở về nhà sau một ngày bận rộn với công việc cuối năm, với việc hoàn tất hồ sơ tốt nghiệp cho học sinh. Bước vào nhà, bất ngờ gặp chị Hằng từ Nha Trang ra thăm…
          Chiều xuống chầm chậm, phố biển trở nên dịu mát nhờ những cơn gió nồm từ biển thổi vào. Hoàng hôn bao trùm cảnh vật. Bóng tối lan dần. Qui Nhơn trở về một sự chuyển biến mới. Thành phố bây giờ còn lại những hình hài đường nét trong cái động và cái tĩnh về đêm.
          Từ đường Nguyễn Tất Thành - An Dương Vương, chúng tôi hướng về phía trường Sư Phạm.
-Sân bay Qui Nhơn đâu em? Xe đang chạy chị Hằng quay lại  hỏi tôi.
-Dạ, mình đang đi trên con đường mà trước đây là sân bay đó chị.
Tôi vừa nói, vừa lấy tay chỉ một vùng trước mặt và phía sau.
          Chị nhìn quanh rồi dường như không thấy còn sót lại một dấu vết cũ xưa nào. Chị hỏi:
-Em ơi, Eo Nín Thở nằm ở hướng nào?
          Vòng xe lại, chúng tôi đến Eo Nín Thở. Những cơn gió biển thổi vào mang theo cái vị mằn mặn của biển. Không có “cái mùi” mà chúng tôi phải “nín thở” mỗi khi qua lại nơi này. Không còn cái khúc quanh với những hàng rào kẽm gai ranh giới với sân bay Qui Nhơn. Chỗ chúng tôi đứng là những chiếc xe bán nước giải khát, sau lưng là công viên cây xanh…
Mỗi chúng tôi như đắm chìm trong kí ức của một thời. Riêng tôi, tôi thấy tuổi trẻ của mình hiện rõ với những ngày mưa, ngày nắng trên những chuyến xe Lam đến trường hay về nhà. Tuổi thanh xuân phơi phới với bao niềm vui…
          Giọng chị Hằng nhè nhẹ, kéo tôi về với thực tại:
-Bao nhiêu năm nay, chị ao ước có một ngày về thăm lại trường xưa, thăm lại khung trời cũ thân thương, thăm lại con đường …thăm khu nội trú…Nhớ quá đi! Ngôi trường Sư Phạm! Nhớ thầy cô và bạn bè! Nhưng rồi cuộc sống cứ cuốn đi, chị chẳng có dịp. Thế nhưng lúc nào trong tâm thức chị cũng vang lên tiếng vọng từ ngôi trường. Tiếng vọng từ sóng biển, từ tiếng gió vi vu qua hàng dương hay tiếng của ai đó gọi, thôi thúc chị trở về! Rồi chị nghe tin Len mất! Chị bàng hoàng, sững sờ đến lặng người. Chị quyết định trở về thăm lại trường, đi thăm mộ phần của bạn. Cuộc đời này quá ngắn ngủi! Mới đó mà người còn người mất…giọng chị nhỏ dần.
          Chị Hằng là bạn thân với chị tôi. Các chị học khoá 7. Sau khi ra trường, hai chị chọn nhiệm sở Cam Ranh. Mùa xuân 75 mỗi người một phương không nghe tin tức về nhau…
          Thật tình mà nói, tôi ở Qui Nhơn nên có rất nhiều dịp đi qua lại ngôi trường Sư Phạm. Mỗi lần như thế, tôi thường ngoái đầu đăm đắm nhìn thật lâu cho đến khi khuất hẳn. Nhưng chưa bao giờ mạnh dạn bước vào trường thăm lại khung cảnh cũ. Có lẽ tôi sợ lạc lõng, sợ hụt hẩng, sợ một mình bơ vơ giữa cảnh và người… Rồi chiều nay, thật bất ngờ khi chị Hằng từ Nha Trang ra. Chị nói lên điều mong ước và niềm khát khao trong tôi bùng lên. Chúng tôi như đồng cảm! Thế là, tối hôm đó, vội vã về thăm trường.
          Dừng lại trước cổng trường. Cánh cổng đóng im lìm. Ánh đèn đường hắt chéo vào một màu sáng vàng vàng nhưng cũng không soi rõ bên trong. Sau một hồi, chúng tôi lùi lại và tìm lối đi vào trường. Lối đi phía sau nhà thầy Bồn, đi ngang qua nhà thầy Sum, thầy Mẫn ngang qua hàng hoa sứ…Chúng tôi vào được sân trường. Sân trường im vắng chỉ có ba chúng tôi: Chị Hằng khoá 7, chị kề tôi khoá 10 và tôi khoá 11.
          Thật vui mừng như tìm lại những gì thân thương. Trong tâm trí tôi, những kỉ niệm cứ dồn dập ùa về…Tôi nhớ mỗi sáng thứ hai chào cờ ở sân trường, tà áo dài trắng bay bay trong gió. Những khuôn mặt hớn hở vui tươi trong nắng mai…
Đằng kia là sân tập thể dục, tôi nhớ như in tiếng còi của thầy Phan Minh Ba cất lên là chúng tôi nhanh chóng ra sân. Nam nữ ăn mặc gọn gàng, chân mang giày Bata bước đều mạnh mẽ, hiên ngang hát vang: “Đoàn người tưng bừng về trong sương gió. Hồn như đám mây trắng lững lờ. Giang hồ không bờ không bến đẹp như kiếp Bô Ê Miên. Ánh dương lên, một đoàn thanh niên…”
Tôi nhìn sang bên phải, bao nhiêu năm rồi hội trường vẫn còn đó. Dường như văng vẳng âm vang rộn ràng tiếng trống, tiếng đàn, tiếng hát… của những đêm hội diễn văn nghệ  hay tiếng khua chén bát hằng ngày vào mỗi bữa ăn của các bạn nội trú…
Cứ thế, chúng tôi đi lần vào bên trong. Tiếng vọng từ dãy lầu phòng học. Tôi thấy mình sáng sáng, chiều chiều lên xuống những bậc thang lầu vào phòng học hay đứng dựa vào góc trụ, lan can lầu…nhìn xuống công viên ghế đá, hoa sứ thoang thoảng đưa hương hay ngắm những đoá hoa hoàng anh vàng tươi khoe sắc. Những giờ học Tâm Lý với thầy Đàm Khánh Hỷ, giờ Giao Tế Xã Hội thầy Võ Sum, giờ Quản Trị Học Đường với thầy Toản, Sư Phạm Lý Thuyết thầy Nở, Giáo Dục Cộng Đồng thầy Bồn, Toán Học Ứng Dụng thí nghiệm cùng với thầy Học…Giờ Nhạc thầy Hoàng Hy, giờ Hội Hoạ thầy Phan Thâm…Tất cả các thầy đã trang bị kỹ càng, đầy đủ cho chúng tôi những tác phong của người thầy, những kiến thức quý giá để sau đó làm hành trang vào nghề, vào đời.
 Preo với những giờ Hoạt Động Thanh Niên trò chơi " Làm mèo" hình ảnh bạn Hoàng Phượng khóc thút thít khi bị làm mèo vẫn còn in đậm trong tôi. Mới ngày nào chúng tôi đi vòng hát vang những bài hát thiếu nhi " Kìa con bướm vàng! Kìa con bướm vàng! Xoè đôi cánh, xoè đôi cánh..."  hay " Con gì kia nó ngồi là ngồi trong hang. Nó quay cái lưng ra ngoài đó là con cóc..." 
          Cứ thế, tôi bước đi trong im lặng, trong hoài niệm....
          Hành lang dài hun hút dẫn về khu nội trú Nữ. Cả ba ngỡ ngàng vì cửa đóng then cài. Không còn phòng trực với cô giáo sinh trực tà áo dài trắng cây bút và cuốn sổ trên tay miệng tươi cười chào khách lạ. Không còn bãi cỏ xanh với những đóa hoa forget me not tim tím dễ thương hay những cánh hoa cúc dại vàng tươi…và cũng chẳng còn tiếng lao xao rộn ràng của các bạn đi về...
          -  Các cô hỏi ai ? Một người đàn ông thấy chúng tôi thập thò trước cửa nên bước ra hỏi.
  Chị Hằng bộc bạch:
          -  Chúng tôi là những cô giáo, trước 75 học ở trường này. Nay trở lại thăm trường.
          -  Mời các cô vào! Vừa nói anh ta vừa mở cánh cửa.
  Chị kề tôi nói:
          -  Lúc xưa chúng tôi học, đây là khu nội trú nữ.
          -  Vậy hả? Bây giờ, đây là chỗ làm việc của ngành khoa học. Anh giải thích...
  Tôi nhìn các bảng treo trên các phòng...Phòng Vật Lí, Phòng Thí Nghiệm Hoá Học…
   Chị Hằng chỉ căn phòng lúc xưa chị ở nội trú. Chị đứng đó thật lâu như sống lại thời đôi mươi…
   Sau một hồi tham quan, chúng tôi cám ơn anh ta và quay trở ra.

          Ngôi trường vẫn nhập nhoạng sáng tối trong ánh điện. Đêm trở mình bởi những cơn gió lao xao. Công viên trường là một khoảng tối trước mặt. Vang vọng đâu đây bài hát của đêm mãn khóa 11: Đêm bây giờ đêm mai của TCS. " Ôi! Đêm dài và cơn bão rớt. Trên dãi đất quê hương khô cằn. Ôi! Bom đạn cày trên những xác ... Đêm bây giờ, đêm quá hư vô. Ôi con người mang trái tim khô. Đêm bây giờ thắp sáng âu lo.Hai mươi năm buồn vui hững hờ..."
  Bây giờ ngồi đây sau bao nhiêu năm tôi thấy các thầy chọn bài hát trong đêm mãn khoá 11 thật phù hợp và ý nghĩa với tâm trạng chúng tôi trong bối cảnh lịch sử đất nước. Hai mươi năm từ khi chúng tôi sinh ra (1954-1974) chiến tranh, bom đạn. Tuổi trẻ chúng tôi có gì? Được gì?
  Bài hát cất lên đêm đó như một sự cảm thông như một sự sẻ chia của những người đi trước với những người em đi sau là rồi đây khi các em ra trưòng trên mọi nẻo đưòng đất nưóc biết bao gian khổ, chông gai, hiểm nguy đang đón chờ. Như một lời tiên tri. Con đưòng khoá 11 chúng tôi đi, không bằng phẳng, không suôn sẽ, không yên bình và cũng không phải là thảm nhung với hoa hồng như tuổi trẻ chúng tôi hằng mơ ước mà là bộn bề những vất vã, đối diện với sự khốc liệt của chiến tranh, cảnh chết chóc thê thảm...Sau 75 lại càng …
 
  Chúng tôi ngồi xuống bậc tam cấp nhìn ra sân trường, xung quanh vắng vẻ, quạnh hiu. Nỗi nhớ bùng lên! Thầy cô giờ này ở đâu? bạn bè đâu hết rồi? Một cảm giác lành lạnh trống vắng len vào hồn. Sương đêm xuống, tôi nghe rõ mồn một tiếng xào xạc của gió qua hàng cây, tiếng sóng biển xa xa... tiếng côn trùng rên rĩ...và cả tiếng vọng từ đâu đó gọi người về.
  ".... Các em biết không? Mình cứ ngỡ rằng : Thời gian sẽ gíúp quên đi tất cả nhưng không phải thế! Có những kỉ niệm cứ sống và luôn theo ta cho đến lúc ta xuôi tay nhắm mắt...Chị mong gặp lại thầy cô, bạn bè biết đâu mình chẳng còn cơ hội nữa…" Giọng chị Hằng nghèn nghẹn, tiếng thở dài đầy tiếc nuối.

          Thoắt cái, thế mà đã mười mấy năm trôi qua kể từ cái đêm hôm chúng tôi lặng lẽ về thăm lại trường xưa…Sau đó, cuộc sống đẩy đưa tôi rời xa Qui Nhơn, tạm biệt khung trời kỉ niệm, bỏ lại sau lưng những buồn vui của một thời.
Vào Sài Gòn, những ngày nắng, những chiều mưa hay những lúc thoáng có những cơn gió trở mùa…nỗi nhớ bạn bè, trường lớp lại đau đáu trong tôi. Tôi cố gắng tìm gặp và liên lạc được nhiều anh chị em cùng trường cùng khoá ờ hải ngoại hay trong nước. Tôi nhận ra một điều là: Tất cả chúng tôi, ai đã từng có một thời học dưới mái trường Sư Phạm Qui Nhơn (1962-1975) cũng đều ước mong có một dịp nào đó cùng bạn bè nắm tay nhau trở về thăm lại trường xưa. Vẫn biết rằng phải có “nhân duyên” mới “hạnh ngộ” nhưng tất cả chúng tôi đều có cái tâm hướng về nhau, hướng về mái trướng xưa thế nào rồi cũng được toại nguyện.
Và với tâm nguyện ấy! Với niềm mong ước thiết tha ấy! Như một khát khao thôi thúc. Để rồi năm nay, tháng 5 năm 2012, ước mơ đó sẽ thành hiện thực.

Đà Nẵng, 25/03/2012.
Irene.       

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2012

Hương xưa


Bốn mươi hai năm qua rồi mới liên lạc được với các bạn Sư phạm Quy Nhơn, cùng lời hẹn về thăm lại trường xưa.
Bốn mươi hai năm, khoảng thời gian quá dài cho một đời người truân chuyên, nhưng nhìn lại như mới thoáng hôm qua.
Vẫn còn đâu đó những mùi hương, một chuỗi những mùi hương đã trót gắn bó với ta những năm tháng tóc còn xanh.
Những ngày đầu tiên lạ lẫm đặt chân đến trường, ta như choáng ngợp trong hương thơm của gió biển, của thông xanh bát ngát.
Nội trú năm nhất niên với một hành lang dài, để đêm đêm từ đó, ta có thể ngắm nhìn ánh đèn máy bay chớp sáng từ dãy núi xa, hít thở mùi hương của đêm, nồng nàn, tĩnh lặng.
Ta nhớ mùi hương của Mẹ, vòng tay ấm của Cha và khóc một mình.
Nỗi nhớ rồi cũng vơi, những bạn bè đã trở nên rất đỗi thiết thân.
Ta nhớ mãi những buổi Thầy hiệu trưởng lên thăm phòng nội trú, Thầy hiền từ là thế mà sao ta vẫn cứ sợ sợ là, nỗi sợ hãi xem lẫn niềm kính yêu của tất cả giáo sinh thơ ngây như ta ngày ấy. Thầy bảo “hãy học thêm lên, nếu em nào đã có tú tài bán thì học thi toàn, nếu có tú tài toàn thì học thêm đại học, sao cả ngày cứ mãi đan với lát thế”. Các thầy cô mãi mong muốn học sinh mình hoàn thiện hơn.
Những mùi hương quyến rũ của đời làm giáo sinh còn là mùi hương của những mái tranh, mùi rơm rạ, mùi hoa đại của những chuyến đi công tác văn chính xã về các miền quê xa xôi trên những chuyến xe lam khét nghẹt mùi xăng, mùi hương nông nàn của gió biển Cù Lao Xanh.
Lên nhị niên, cuộc sống đã tất bật hơn với những bài vở, với những buổi đi thực tập.
Khu nội trú mới tiện nghi hơn, nhưng ngột ngạt như một hộp diêm khổng lồ. Ta không còn được ngắm biển, ngắm thông vì phòng ta ở tầng thấp nhất, chỉ còn được nghe tiếng sóng biển gầm thét mỗi đêm.
Ta cùng bạn ta đã nhiều lần lén ra khu vườn cổ tích (là nhà thầy hiệu trưởng), lượm những cánh hoa vàng cài lên tóc và ngỡ như được tắm đẫm trong vô vàn hương hoa.
Ngày thi ra trường sắp đến, ta và các bạn vùi đầu vào học thi, có những bạn học ở các cột điện cao áp, ta và các bạn khác vào giảng đường học. Khi điện tắt, đèn dầu được thắp lên. Cần mẫn chăm chỉ như những chú ong thợ, sao mà dễ thương đến vậy, các bạn ta ơi.
Những ngày tháng cuối cùng còn được ở trường, ta vẫn thơ thẩn một mình dọc hành lang giảng đường, những phòng học tối om, những tấm bảng đen câm nín, ta khẽ nói: “tạm biệt, tạm biệt trường ơi, lớp ơi”, lòng rưng rưng muốn khóc.
Không được may mắn như các bạn cùng khóa, vì thời cuộc, ta không còn được tiếp tục đi dạy nữa. Nhưng cho dù năm tháng đã đi qua và bể dâu cuộc đời cùng bao thăng trầm của cuộc sống đã cho ta lắm nổi đa đoan, ta vẫn không thể nào quên chút hương xưa của một thời học làm cô giáo.

Kim Liên
Sư phạm Quy Nhơn khóa 7

LinkWithin

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...