Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện Ngắn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện Ngắn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 22 tháng 6, 2015

NGHĨ VỀ CHA

Thanh Cảm - K11

Đã quá nửa đêm. Từ trên vuông cửa nhỏ ở tầng mười ba của chung cư này nhìn xuống, thành phố giờ đã yên vắng hơn và dịu dàng hơn. Ánh đèn cao áp hắt xuống mặt đường một màu vàng mờ ảo thoảng hơi sương đêm hiếm hoi ở cái thành phố vốn ồn ào này. Sông Sài gòn ban đêm có vẻ thanh bình và hiền hòa lắm , dòng sông loang loáng nước  miên man chảy về một nơi nào đó xa lắc xa lơ… xa như thời tuổi trẻ của tôi giờ đã là kỷ niệm, những kỷ niệm tôi đã chắt chiu và trân quí vô cùng.
Còn nhớ ngày đó, vào những tháng năm đầu tiên đi học, vì tôi là con gái đầu lòng nên ba mẹ đã chăm lo đủ thứ, từ việc ghi tên vào những cái nhãn nho nhỏ cho đến việc bao bọc cẩn thận cho từng quyển vở của tôi. Tôi nhớ ba đã ngồi nắn nót từng nét chữ để tô thêm cái tên của tôi thật đẹp trên những cái nhãn vở bé xinh ấy. Tôi hồn nhiên nhận những ân cần chăm sóc ấy như một lẽ thường tình của một người cha dành cho con mình. Tôi đâu biết rằng đó là tất cả những gửi gắm yêu thương mà ba đã dành cho tôi qua cái tên đầy tình cảm ấy.
Hết bậc tiểu học (lớp Nhất –lớp năm bây giờ) rồi thi vào đệ thất, tôi đỗ vào trường Nữ Trung học Qui Nhơn và bắt đầu những năm trung học của tôi bên sự yêu thương của gia đình, ba mẹ. Ngày ấy bậc trung học là từ  lớp đệ thất đến đệ nhất  (lớp 6 – 12 bây giờ ).
Cuộc sống cứ thế trôi đi không có gì để mà khắc khoải, để mà phàn nàn cho đến khi tôi bước vào những năm cuối cấp. Vì là trường của con gái, mà con gái thì các bạn cũng biết rồi đấy… học cũng cừ mà cũng lắm chiêu nhiều trò nghịch ngợm để rồi giận rồi hờn với nhau vài ba ngày không thèm nhìn mặt.

Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2015

HOA THÁNG BA.

                                                                         Thanh Cảm

        Tháng ba về!Tháng ba đong đưa vài sợi nắng cuối chiều rơi trên từng con đường nhỏ,nắng khẽ hôn vào những chiếc lá vàng xao xác trên đường,tiếng lá đuổi chạy trong gió lao xao một âm thanh gợi nhớ xa xôi…
        Tháng ba với những mảng trời đầy mây xanh nắng xanh,với những trưa vàng hanh hao đợi gió,với từng góc phố nhỏ chờ mưa về tưới mát ngọt lành và tháng ba gợi ta nhớ về những câu hát ngày xưa trong trẻo…
       “Mùng 8 tháng 3 em ra thăm vườn
        Chọn một bông hoa xinh tươi tặng cô giáo…”

       Thế là cũng đã hơn mười năm,từ ngày tôi vào Sài Gòn sống cùng gia đình thì hầu như mùng 8 tháng 3 năm nào cũng mang lại cho tôi những cảm xúc rưng lòng!Những lời chúc thương yêu, những dòng tin nhắn thân thiết,những bông hoa xinh xắn đến với tôi trong ngày này bằng những tấm chân tình của những người thân yêu nhất.
       Tháng ba về để tôi nhớ đến tháng ba quê tôi đẹp mỏng manh với những cánh hoa điệp vàng nhẹ nhàng đuổi bắt nhau trên con đường ven biển sóng sánh nắng chiều,để tôi nghe thoảng đâu đây mùi hương ngọc lan nở muộn thơm lừng trong công viên sân trường đầy gió,để tôi thấy dáng ai dịu dàng bên gốc trúc đào đỏ rực e ấp,bâng khuâng…Và,tháng ba về để tôi nhớ mẹ tôi giờ tóc đã bạc trắng cả mái đầu!
       Từ ngày ba tôi từ giã mẹ để đi về nơi xa,dáng mẹ đã gầy nhiều hơn trước,tóc mẹ đã bạc lại càng bạc thêm.Tuy không nói ra nhưng tôi biết trong tâm thức mẹ tôi hình bóng ba vẫn còn như thuở nào,ba vẫn bên mẹ sẻ chia đỡ đần,ba vẫn nhìn mẹ ấm áp bao dung. Ngày ba mất,mẹ không khóc nhưng sâu thẳm trong lòng tôi biết mẹ đau đớn vô cùng!Các em tôi hầu hết đều có gia đình riêng và đếu sống gần mẹ nên tôi cũng thấy yên tâm hơn mỗi khi trái gió trở trời,mà mẹ tôi thì đã già yếu lắm rồi.Vậy đấy,tuy không còn khỏe nhưng bà vẫn cứ muốn vào thăm chúng tôi và rất thích tham gia các cuộc hành hương về chùa đầu năm để cầu nguyện bình an cho con cháu.Mỗi năm,vào những ngày đáng nhớ,vợ chồng cậu con trai của tôi đều đến chào thăm và không quên tặng bà những món quà nhỏ,vậy mà mẹ tôi vui lắm,cứ có ai đến là bà lại mang chúng ra khoe với nụ cười rạng rỡ ấm nồng.

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013

DÙ CHỈ ĐỂ GIÓ CUỐN ĐI...

           Irene.


         Chiều buông khi nắng vừa tắt, bầu trời xanh nhạt với những mảng hồng phai pha một chút tim tím. Từng cơn gió thổi dịu mát, Thành phố như lắng xuống thêm một chút nữa, một sự yên ắng của cảnh cuối chiều. Chiều về thường gợi trong lòng tôi một điều gì đó sắp tàn, một nỗi buồn man mác…
         Từ lúc, lớp tôi tìm gặp lại tất cả bạn bè của ngày xưa ấy. Tôi vui mừng nhưng rồi lại thoáng ngậm ngùi khi biết hoàn cảnh khó khăn của một số bạn hay nghe tin sức khỏe vài bạn không được tốt. Vợ chồng bạn tôi có mấy thang thuốc Nam nghe tin người bạn bịnh nặng đã mấy năm nay nên vội vàng gởi thuốc cho bạn. Sau đó, nghe bệnh của bạn thuyên giảm. Mừng quá, vì sự hiệu nghiệm của thuốc, nên gọi về quê nhờ người mua tiếp để dự trữ vì nghe đâu có một vài người bạn cũng bị bịnh như thế.
         Viết ra đây như thế này, chắc chắn rằng bạn ấy chẳng bằng lòng đâu vì các bạn tôi thường nói rằng, bạn bè đối với nhau là ở tấm lòng, đâu cần phải phải nói ra hay phô trương cho mọi người biết.

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

MỘT THOÁNG BÌNH YÊN.

     Irene.
Tiếng gà gáy vang, lan dần từ nhà này sang nhà khác rồi đồng loạt cất lên làm khuấy động sự yên tĩnh, báo hiệu một ngày mới đang đến với cái xóm nhỏ. Tôi mở cánh cửa ra nhìn nắng sớm. Tiếng chim ríu rít trong vòm lá nghe động vội bay vút lên bầu trời xanh. Trong vườn, đóa tường vi đang hé nở. Một cơn gió nhẹ thoảng qua. Không khí buổi sáng thật trong lành, mát mẻ dễ chịu.
         Tôi muốn nhớ thật nhiều về ngôi trường Sư Phạm Quy Nhơn. Nơi mà tôi và các bạn đã có một thời cùng học dưới mái trường. Thật sự mà nói, hai năm học có quá nhiều điều để nhớ! Để nói! Mỗi khi nghĩ đến khoảng thời gian đó với những khuôn mặt thân quen của các bạn nhị 6 khóa 11, tôi thấy lòng mình thật bình yên!
 Bình yên một thoáng cho tim mềm
         Bình yên ta vào đêm
         Bình yên để đóa hoa ra chào
         Bình yên để trăng cao
         Bình yên để sóng nâng niu bờ
         Bình yên không ngờ.
         Lòng ta se sẽ câu kinh bình yên…( Bình yên – Quốc Bảo )
         Hai năm học, ngày ngày đến trường cùng các bạn. Đó là khoảng thời gian êm đềm và bình yên nhất! Ở đó, không có sự tranh giành, đua chen. Không có sự tị hiềm nhỏ nhen hay đố kỵ…mà chỉ sống với nhau trong sự thương yêu của tình bè bạn.
         Hôm qua, Võ Sao Tây người bạn cùng lớp nhị 6 SPQN gọi phone đến nói chuyện “ Ngày về ”. Tuy sức khỏe bạn không tốt do qua hai lần giải phẩu nhưng bạn ấy cũng quyết tâm trở về lần này để gặp bạn bè. Tôi cười trêu bạn ấy:
         -Nhớ về nghe! Để lỡ “tui” có hát bài “Còn một chút gì để nhớ” thì còn có người “đi lạc”như ngày xưa ở Tháp Bánh Ít chớ! Tây cười xòa, bộc bạch rất chân thật:
         -Ừ, về chơ! À này! Mấy đứa bạn vừa đưa cho mình tên trang Sư Phạm Quy Nhơn. Hồi hôm mình thức đến 12giờ đêm để xem mấy bài Ren viết…
         Tôi vui lắm ! Trước sự chân chất của bạn ấy và của các bạn khác nữa như Thủ Tịnh, Kim Thạch, Tự Tín, Đình Tú, Sĩ Tạo, Tâm Thanh, Ánh Tuyết, Văn Thái…hình như các bạn dành cho nhau và cho tôi những tình cảm rất ư là mộc mạc, chân thành làm tôi thấy  ấm lòng.
         Tôi không bao giờ quên! Mùa thu, mùa khai trường năm ấy! Tôi không nôn nao, rộn rịp như những mùa khai trường năm trước. Tôi lặng lẽ đến trường. Bước vào cổng trường, người đầu tiên tôi gặp là Hoài Thanh. Tôi và Thanh học cùng lớp ở Tiểu Học Ấu Triệu. Sang cấp 2, Thanh học Trinh Vương còn tôi học Nữ Trung Học. Gặp nhau cả hai đều mừng! Nhất là khi biết chúng tôi sẽ cùng học chung một lớp nhất niên 6. Tôi lại càng vui mừng khi biết Lê Sen, Vĩnh Phước, Hoàng Phượng…cũng học chung lớp.
         Buổi chào cờ đầu tiên ở sân trường. Chúng tôi lớ ngớ không biết xếp hàng như thế nào? Một bạn cầm danh sách đến hướng dẫn, sau này tôi mới biết đó là bạn Tố : Nữ đứng trước xếp thành hai hàng, nam đứng phía sau. Sau đó một bạn hướng dẫn chúng tôi lên lớp rồi đọc danh sách. Tôi nhớ như in từng chỗ ngồi của các bạn theo thứ tự từ ngoài cửa vào: Phúc, Phước, Phương, Phượng, Ren, Sen, Hoài Thanh, Tâm Thanh, Lệ Thu, Tỏi, Tuyết. Hết nữ đến nam. Bắt đầu là : Tài…Tạo…Tiến…Tín…Tình…Tịnh … Tố, Thạch…Thái…Thanh…Thành... Tuấn…Tú…Tượng.
         Có lẽ vui nhất là thành lập các ban của lớp! Tôi chẳng biết ai mà bầu nên cứ thấy khuôn mặt nào được được là bầu đại! Ban xã hội, một bạn nam giơ tay xin ứng cử.
         -Tôi là Lê xuân Thanh xin làm trưởng ban “xã họi ”. Các bạn nam cười rân lên. Tôi ngạc nhiên! Một bạn ngồi phía sau nói: Xã hội mà nói là “xã họi”. Thế là từ đó bạn ấy có thêm một tên mới là“Thanh xã họi”.
         Ban Văn Nghệ không thấy ai giới thiệu ai cả? Cuối cùng bạn Nguyễn Sĩ Tạo xung phong làm trưởng ban.
         Cuộc thi văn nghệ sắp đến, Sĩ Tạo gặp tôi: - Chị tập dùm lớp một tiết mục văn nghệ để chuẩn bị kỳ thi toàn trường. ( Chắc là thấy tướng tôi có vẻ văn nghệ?!)
         Về nhà, tôi “vắt hết óc”. Cuối cùng tôi cũng tìm được một tiết mục. Tôi chọn các bạn nam, nữ xếp đội hình và tập. Bạn Nguyễn Như Tiến ngày đêm vẽ, tô màu, mấy cái đàn Tỳ bà tuyệt đẹp. Thế là Vũ khúc Tiếng Xưa ra đời. Thêm màn hợp ca Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói. Năm ấy chẳng thấy “sáng chói” chút nào mà cả lớp “buồn xo” vì không được một cái giải nào cả! nhưng rồi cũng được an ủi, khi thầy dạy nhạc khen vũ khúc Tiếng Xưa và chọn đi trình diễn một vài nơi. Năm thứ hai, rút kinh nghiệm nên tôi chuẩn bị, tập dợt kĩ càng hơn. Miếng Trầu Duyên “trình làng” một đám cưới rầm rộ của Gia Đình Nhị Sáu. Kết quả đạt giài nhất toàn trường.
         Sau cuộc thi, chúng tôi như thân thiết nhau hơn. Noel năm đó  rủ nhau đi chơi. Cả lớp cứ đi dạo hết con đường này đến con đường khác. Hình như trong túi không một ai có tiền. Tôi nhớ khi đi đến đoạn Võ Tánh -Tăng Bạt Hổ, bạn Trần ĐìnhTín vội đi về nhà ở gần đó lấy tiền? Sau đó,  bạn ấy dẫn cả nhóm đi uống nước. Lúc đó, chúng tôi còn rất ngây thơ, chân chất …Nữ thì hiền lành, hồn nhiên. Nam thì chẳng biết “galant” là gì? Bản chất ra sao thì cứ bộc lộ như thế. Sống hiền hòa,vô tư và rất thật lòng.
         Trong các giáo sư giảng dạy lớp tôi. Nghiêm nhất là thầy Tính. Mỗi lần vào lớp là thầy lướt mắt nhìn xem nhất là các bạn nam, ngồi có đúng vị trí hoặc ngay ngắn không? Có bạn nào hồi hôm thức khuya ( Nội trú nam thường có một số bạn lén thức khuya trong phòng làm gì đó???!!!) Sáng ra, vào lớp, buồn ngủ nên tìm chỗ nấp sau lưng các bạn để ngủ? Thỉnh thoảng tôi thấy thầy gọi tên một bạn nào đó đang lim dim ngủ gật.
         Giáo sư thường xuyên dò bài là thầy Đàm Khánh Hỷ. Lúc đó cả lớp sợ môn Tâm Lý Giáo dục nhất vì đa số không thuộc bài.   Nên nghe thầy gọi tên là bạn nào cũng “thót tim” theo.
         Có lẽ dễ nhất là giờ học của thầy Kim. Suốt cả năm cứ đến giờ là thầy cho thuyết trình, hết bạn này đến bạn khác… Thầy ngồi cuối lớp nên các bạn phía trên mặc sức làm việc gì tùy ý.
         Thích nhất là giờ Nhạc. Thầy Hoàng Hy cho cả lớp xướng âm và hát (vì bạn nào cũng thích hát)  nên ai cũng thấy vui.
         Thời gian trôi qua, quen trường, mến bạn. Chúng tôi bắt đầu đến trường Sư Phạm Thực Hành tập làm cô giáo, thầy giáo. Tội nhất là bạn Lớp trưởng. Có một vài bạn nữ, mới giới thiệu tiết dạy thì sợ quá òa khóc! Thế là bạn Tuấn phải dạy thay cho bạn ấy! Rồi những ngày rộn ràng đi thực tập ở các trường. Từng nhóm các bạn giúp đỡ nhau từ khâu soạn bài, vẽ hình cho đến giảng dạy. Rồi đến ngày thi ra trường, ngày chọn nhiệm sở…Các bạn lúc nào cũng lo cho nhau, nương tựa vào nhau, giúp đỡ nhau…Thế rồi tất cả chọn nhiệm sở và lên đường dạy học. Hẹn sẽ gặp lại nhau trong một ngày rất gần. Nhưng cuộc chia tay ngày ấy sao mà kéo dài đến thế! Phải gần 40 năm sau mới tìm lại được nhau, để rồi cùng nhau hẹn một ngày trở về.
         Tuần trước cô bạn Ánh Tuyết biết được số phone nên gọi điện cho tôi, vài ngày sau Tuyết hẹn tôi bật wedcam để nói chuyện với nhau. Khi máy mở ra, tôi không nhận ra Tuyết! Hình ảnh cô bạn nhỏ nhắn trẻ trung của tuổi hai mươi in đậm trong tâm trí tôi đâu mất rồi???!!! thay vào đó là một người đã có tuổi. Tôi nghĩ : Phía bên kia chắc Tuyết cũng ngỡ ngàng khi nhìn thấy tôi!!! Tự nhiên trong tôi dâng lên một nỗi buồn. Thời gian nghiệt ngã sắp đặt cho cuộc hội ngộ khi tất cả đã ngấp nghé ở tuổi lục tuần.
         Tất cả chúng tôi tuổi cao, tóc đã bạc nhưng hình như tâm hồn vẫn trẻ. Gọi điện cho nhau, hỏi thăm, rủ nhau trở về rôm rả như thời nào. Tôi gọi điện cho một người bạn cùng lớp bây giờ đang làm ở Tỉnh Ủy Phú Yên nhở bạn ấy gọi tất cả các bạn ở Phú yên  cùng về. Bạn ấy nhiệt tình:
         -Được rồi! Mình sẽ liên lạc với Huỳnh Kim Thạch và các bạn khác nữa để rủ nhau cùng trở về!
         Tôi mừng lắm! Tất cả các bạn nhị sáu khóa 11 đều hướng về nhau. Các bạn sống rất có tình. Tuy không ít mỗi người trong số chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Ai cũng có một lối đi khác nhau nhưng hình như chúng tôi đều dành một khoảng riêng nào đó trong lòng mình cho bạn bè! Riêng tôi, tôi rất quý những tình cảm ngây ngô, chân thật ngày ấy! Đó là khoảng bình yên nhất trong tâm hồn tôi mỗi khi nghĩ đến các bạn. Tôi luôn giữ mãi những kỉ niệm đẹp thấm đẫm tình bạn đích thực và là niềm vui rất lớn đối với tôi trong những ngày còn lại này.
         Ngày về không còn bao lâu nữa! Tất cả chúng tôi đang nôn nao, mong chờ! Và bắt đầu đếm từng ngày: năm… bốn… ba…hai … một …  Đi về Quy Nhơn nào, nhanh lên các bạn ơi!
         Sài Gòn, 06/05/2012.
                  Irene.

Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2012

MỘT KHOẢNG TRỜI RIÊNG…



                                        Phương Uyên.
                 Viết theo lời kể của một người chị.
        

         -  Mình có nên trở về không?
Câu hỏi đó hiện ra trong đầu chị cả tuần nay. Sáng, trưa, chiều, tối, lúc nào nó cũng cứ lặp đi lặp lại mà chị vẫn chưa biết  quyết định thế nào? Trở về! Trở về ư? Dường như có một điều gì đó còn ngại ngần trong lòng chị?
         Năm 1968, chị thi vào trường Sư Phạm Qui Nhơn. Từ bé chị đã thích sau này lớn lên mình sẽ thành cô giáo! và chị đã được toại nguyện.
Chị nhớ mãi! Buổi sáng hôm ấy! Khi hừng đông vừa rạng, ba đèo chị trên chiếc xe đạp từ Thành Nội ra cửa Thượng Tứ, qua cầu Trường Tiền đi về phía Morin đến nhà ga. Chị rưng rưng nước mắt tạm biệt ba và Thành phố Huế khi mọi vật vẫn còn nhập nhòe trong sương. Thế là chị xách vali lên tàu lửa, rời xa những gì thân thuộc của tuổi thơ vào Qui Nhơn nhập học.
         Qui Nhơn một thị xã nhỏ nằm ven biển miền Trung êm đềm và hiền hòa. Chị ở trọ nhà một người bà con đường Nguyễn Du. Hàng ngày chị đến trường trên những chuyến xe Lam. Đường đi vào ngôi trường của chị rất thơ mộng và yên tĩnh, thỉnh thoảng một vài chiếc xe Jeep chạy ngang qua rồi mất hút ở cuối đường. Hai bên đường là hai hàng dương liễu xanh vi vu trong gió hòa lẫn với tiếng sóng biển vỗ rì rào vào bãi cát. Xa xa là những dãy núi và đại dương mênh mông.
Lúc mới vào, nhìn  cảnh vật chị buồn và nhớ nhà chi lạ! Nhưng rồi dần dần chị chăm lo học hành rồi lâu cũng quên đi. Nhờ có giọng hát, chị tham gia cùng các bạn trong ban văn nghệ của lớp, của trường. Chị rất xinh. Tóc thề xỏa ngang lưng. Dáng mảnh mai, dịu dàng của người con gái Huế. Rất nhiều người theo chị! Thế  nhưng mối tình “Văn Nghệ” đến với chị. Chị quen với Bảo học cùng khóa, trong Ban Văn Nghệ nhà trường. Những buổi tập hát, tổng dợt rồi đi trình diễn ở trường, ở Quân Y Viện hay đi Giáo Dục cộng Đồng…chị và “người ấy” lúc nào cũng bên nhau.
Những chiều thứ bảy chị và anh đi dạo phố Gia Long. Nắng nhạt, gió mát. Tà áo dài trắng của chị bay bay.
         Cả hai vào tiệm Đại Chúng. Anh ấy mua tặng chị cây bút pilot màu cà phê sữa và tập giấy pelure màu hồng nhạt. Sang tiệm Khánh Hưng chị lại mua tặng anh những bản nhạc Tình ca của Phạm Duy… Anh và chị tặng quà cho nhau cũng như tình cảm dành cho nhau một cách rất tự nhiên không kiểu cọ hay khách sáo.
         Hai đứa thỉnh thoảng ra biển. Ngồi trên bãi cát vàng mịn, ngắm biển chiều với những con sóng vỗ vào bờ tung bọt trắng xóa:
         -Ngọc Minh ơi! Sau này khi ra trường, anh và em đổi về dạy cùng một chỗ nghe!
         - Ừm, nhưng mình chọn dạy ở chỗ nào?
         -Đà Lạt.
         -Tuyệt! Chị reo lên.
         Nghĩ đến Đà Lạt là chị đã thấy thích ngay. Thành phố mộng mơ. Cứ tưởng tượng ra trước mắt mình một ngôi trường nhỏ trên đồi với những đứa học trò bé bỏng. Hằng ngày chị cùng anh đến trường quanh co qua những thung lũng thấp. Bên đường những khóm Dã quỳ nở vàng tươi hoặc cả hai nắm tay nhau đi trên những con dốc đầy sương mù…ôi thật là nên thơ!
         Hai năm bên nhau nhiều kỷ niệm rồi ngày thi ra trường, ngày tốt nghiệp cũng đến. Hôm chọn nhiệm sở. Chị bước lên bục trước không ngần ngại chọn Đà lạt. Đến lượt anh, chị sững sờ ! Anh không chọn nhiệm sở như đã hứa ! mà chọn Quảng Ngãi.  Chiều hôm đó, gặp chị anh xin lỗi rồi giải thích là phải về quê vì cha mẹ già yếu.
Chị khăn gói một mình lên Đà Lạt. Ngôi trường của chị ở một thung lũng gần Đà Lạt. Đà Lạt sương mù vẫn đẹp và thơ mộng nhưng “ người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhiều lúc chị muốn bỏ hết để trở về Huế! Nhưng dần dần quen trường, quen lớp nên nỗi buồn vơi đi phần nào. Với lại, lúc mới lên, chị thường xuyên nhận được thư anh mỗi tháng một vài lần cùng với lời lẽ yêu thương tha thiết, xin lỗi và hứa hẹn làm chị xiêu lòng . Hàng ngày vui với bầy học trò nhỏ với bài soạn, bài giảng, chấm bài…và chờ thư anh. Nhưng rồi thư mỗi ngày một thưa dần, thưa dần cho đến khi có thư đi mà chẳng có thư về…Chị vẫn viết ! Vẫn chờ ! Vẫn mong ngóng mỗi khi có bác đưa thư qua trường…Rồi mùa hè năm ấy! không thể chờ đợi thêm nữa. Trên đường về nhà chị ghé Quảng Ngãi. Gặp chị anh lại xin lỗi! Lại phân trần thế này, thế nọ…Chị lại tiếp tục chờ đợi. Rồi một ngày kia chị nghe tin anh cưới vợ!
         Lúc này chị không giận, không hờn nữa! Thế nhưng những kỷ niệm với nhau trong hai năm học dưới mái trường sư phạm ở  cái thành phố biển hiền hòa ấy! Cứ sống mãi trong tâm trí chị.
Dòng chảy của thời gian tuy nghiệt ngã nhưng cũng đã giúp chị quên quên! nhớ nhớ! Sau 75, chị trở về Huế, tiếp tục đi dạy và chẳng còn biết tin tức gì về nhau nữa!
Chị lập gia đình, sinh con. Ngày tháng bận rộn với dạy dỗ, với gia đình, chị quên mất đi một thời đã...
         Chồng của chị sức khỏe không được tốt. Anh bị bệnh động kinh. Thỉnh thoảng ngã ra và lên cơn co giật. Những năm bao cấp, cuộc sống thật khốn khó. Để có tiền chăm lo cho anh, ngoài đi dạy chị nuôi heo, bán thuốc lá, trồng trọt, chạy chợ mua bán ... Tôn Nữ Ngọc Minh ngày xưa, nay chỉ còn là người đàn bà da đen nhẻm, gầy quắt trông thảm hại. Chị không dám gặp ai nhất là bạn bè cũ…
  Con cái rồi cũng khôn lớn và thành đạt. Đứa ra nước ngoài, đứa có gia đình ở riêng.
 Chị về hưu. Tưởng đâu cuộc sống an nhàn, hạnh phúc. Nào ngờ, cách đây ba năm anh bị đột quỵ và vĩnh viễn ra đi để lại chị một mình trơ trọi.
         Bây giờ, mỗi buổi sáng, thức dậy một mình trong căn nhà vắng vẻ. Chị thường ngồi bên hiên nhìn ra khoảng vườn. Hàng dậu xanh rờn, những con bướm rập rờn trên những đóa râm bụt đỏ tươi. Nắng chiếu rọi làm tấm bình phong sáng trắng lên. Nghe tiếng con chim họa mi nào đó hót ríu rít trong vườn. Tâm hồn chị trở nên thanh thản đến lạ kì.
 Bỗng một hôm, cô bạn cùng khóa gọi đến:
- Minh ơi! 12 tháng 5 năm nay, trường Sư Phạm Qui Nhơn kỉ niệm 50 năm ngày thành lập trường có tổ chức một chuyến về thăm lại trường xưa. Minh cố gắng thu xếp đi nghe!
 Nỗi nhớ như bùng lên! Chị quay quắt! Rồi tất cả những kỷ niệm lần lượt hiện ra trong tâm trí chị. Thế mà, chị cứ nghĩ rằng khoảng thời thơ mộng đó chỉ là đống tro tàn nguội lạnh từ lâu rồi.

         Từ hôm đó đến nay chị cứ nôn nao. Nhiều lần chị đứng trước gương ngắm mình rồi thở dài. Còn đâu tuổi hai mươi! Còn đâu dáng mảnh mai thướt tha của cô gái Huế!  Không còn một nét nào của Tôn Nữ Ngọc Minh ngày cũ? Thế nhưng chị vẫn tự hỏi :- Có nên trở về không?
         Sáng nay, chị thức dậy sớm! Trong vườn, một đóa hồng vừa mới nở. Mặt trời vẫn mọc! Nắng vẫn rực rỡ! Gió vẫn reo vui! Cây cối vụt rạo rực xanh tươi. Chị bỗng thấy cảnh vật chung quanh mình đáng yêu quá! Chị quý cuộc sống này! Chị bật lên : - Ồ! Mình phải trở về!
         Quay vào nhà chị tìm lại chồng áo cũ, chọn một chiếc áo đẹp nhất trong những chiếc áo dài mà chị đã xếp cất từ lâu. Chị mặc vào, ngắm nghía thật lâu trước gương. Ngồi vào bàn, đánh hồng đôi má, kẻ lại cặp chân mày, tô lại vành môi. Ngày mai mình sẽ đi làm lại mái tóc.v.v…và v.v…
Chị  cảm thấy vui và tự tin hẳn lên. Chị nhủ thầm : Mình sẽ trở về để thăm lại trường xưa. Tìm lại khoảng trời thơ mộng ngày cũ dù đó chỉ là sợi khói mong manh còn sót lại trong chiều. Chỉ lần này thôi vì đây là cơ hội cuối cùng! Yêu đời, chị bật lên tiếng hát :
         Còn mãi khung trời đó mình gặp nhau lúc đầu. Ngày tháng hoa mộng đó cùng niềm vui nỗi sầu. Sẽ ghi lại biết bao điều. Để nhớ một thời ta đã yêu…(Đề nhớ một thời ta đã yêu-Thái Thịnh)
         Chị thầm nhủ với lòng mình: Cuộc đời còn có bao lâu nữa đâu? Mình đã ở cái tuổi “Thất thập cổ lai hy”. Ngại ngần làm chi nữa ? Về thôi! Mình sẽ về để gặp lại thầy cô, bạn bè và cả “người cũ” nữa, chỉ để nhớ một thời tuổi trẻ mà thôi!
- Mình sẽ về! Mình sẽ trở về Qui Nhơn! Một lần cuối cùng này rồi thôi!

         Sài Gòn. 05/05/2012
                   Phương Uyên.

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Chia Sẻ Nỗi Đau!


_ A!!! Ba về! Ba về!...
Cu Thành mừng rỡ chạy ra cửa đón ba.  Hưng tươi cười, đặt nhánh lan rừng bên bậu cửa, xốc con trai lên vai và hỏi nhỏ:
_ Mẹ con đâu?
Cu Thành sung sướng tiếp tục la to hơn:
_ Mẹ ơi! Ba về, Mẹ ơi!!! Ba về!

Hoa  đang ngồi trên giường sau tấm màn ri - đô. Nhét vội tập hồ sơ bệnh án dưới mấy quyển giáo án ở trên bàn, chị bước nhanh ra phòng ngoài, mỉm cười đón chồng:
_ Anh mới về! Sao… không  báo trước!
Hưng cười hềnh hệch, đưa một tay ra ôm vai vợ :
_ Anh nhớ mẹ con em…đột xuất!  Mà…em có vui thấy anh về bất ngờ không nè?
_ Dạ, vui chớ!
Giọng Hưng bỗng chùng xuống :
_ Ở nhà có gì lạ không em? Thực ra,  tự nhiên anh thấy nóng ruột,  nhớ em và con quá nên quyết định lấy phép đi về!
Hoa ứa nước mắt. Hôm qua chị kiểm tra sức khoẻ định kì. Thật bất ngờ đến sững sốt khi các bác sĩ  nghi chị bị…ung thư. Trời ơi! Đúng là thần giao cách cảm! Anh thấy nóng ruột thật sao? Chị bỗng rùng mình và tay nổi gai ốc!... Tuy nhiên ráng làm mặt tỉnh, chị nói:
_ Dạ! Đâu có gì lạ đâu anh!
Hưng nhìn vợ:
_ Nhưng sao em …rùng mình và còn …mít ướt nữa nè!
Đưa tay chùi nước mắt , chị mỉm cười:
_ Da!...Dạ!... Tại….em cũng… nhớ anh!
Hưng cười to:
_ Hà hà hà!  Có vậy chớ! Anh cũng đoán vậy!
Hoa gỡ tay chồng ra và nói:
_ Thôi, để em đi chợ! Canh chua cá lóc và tôm rim mắm ruốc nghen!
Đó là mấy món Hưng rất thích! Anh nắm bàn tay đưa ngón cái lên trời cười hạnh phúc:
_ Vợ anh là số một, number one!

Hoa đi chợ. Ngôi chợ ở gần trường nên chị đi bộ. Nước mắt lại ứa ra. Vừa đi, tay gạt nước mắt chị vừa suy nghĩ mông lung! Cầu trời cho nỗi nghi ngờ của các bác sĩ là không đúng sự thật. Chị và con đang ở trong khu tập thể của Trường Đại Học ở Sài Gòn nơi chị đang dạy. Cu Thành còn nhỏ quá, mới sáu tuổi. Vợ chồng chị chưa có mái nhà riêng. Hưng đi công tác xa ở Nhà Máy Thuỷ Điện Yaly ở Gia Lai từ năm 1993 đến nay đã được ba năm. Còn hai năm nữa hết hạn hợp đồng mới có thể xin thuyên chuyển về sum họp vợ con. Lâu nay từ khi lấy nhau rồi sinh Cu Thành, vợ chồng chị dành dụm không được bao nhiêu. Giờ nếu mà chị bị bệnh ung thư thì làm sao đây!

Đến chợ lúc nào chị chẳng hay. Mua vội một con cá lóc còn sống và nửa kí tôm đất, cùng với vài món lặt vặt, chị bước nhanh về khu tập thể. Cố quên nỗi lo bệnh tật, chị vuốt tóc sửa soạn lại bộ mặt tươi tỉnh để vui hưởng hạnh phúc sum vầy cùng chồng con.
Về nhà chị mỉm cười cảm thấy thật ấm lòng khi nhìn một giò lan mới Hưng treo trên cửa sổ đang rung rinh trước gió, còn anh thì đang lui cui đóng lại chân chiếc ghế dựa đã bị xục xịch.
Buổi chiều cơm nước xong xuôi, Hưng chở hai mẹ con đi dạo đường phố Sài Gòn. Tối về cả nhà còn ghé Bạch Đằng ăn kem. Cu Thành thích quá ăn liền đến hai ly kem chocolate.

Rồi những ngày phép cũng qua mau. Buổi tối cuối cùng, Hưng đưa cho Hoa một bì thơ đựng tiền:
_ Đây là tiền lương của anh tháng này và có thêm tiền thưởng nữa. Em cố gắng chịu khó dành dụm hai năm nữa mình mua nhà nghen em! Nhưng cũng đừng tiết kiệm quá mà không đủ sức khoẻ. Anh thấy hình như em không được khoé đó!
_ Dạ, không sao đâu anh! Tạng người em nó vậy đó! Anh cũng ráng giữ gìn sức khoẻ nghen. À! Anh ơi! Em nghe hình như sắp tới Trường em có dự án bán đất hổ trợ cho giáo viên đó anh, và ưu tiên cho những ai chưa có nhà như mình.
Hưng mừng rỡ:
_ Thiệt hông em?  Vậy khi nào có thông báo, em đăng kí mua một miếng đất đi nghen. Anh ráng làm thêm nữa rồi hai năm sau mình cất nhà! Ôi! Nghĩ đến ngôi nhà riêng của chúng mình ở Sài Gòn anh vui quá!

Hoa cũng cảm thấy vui với chồng! Anh là kĩ sư xây dựng thì chị tin chắc ngôi nhà của vợ chồng chị sẽ rất đẹp.  Sẽ có một khu vườn nhỏ để anh chị trồng lan, chứ không phải treo trên cửa sổ những giò lan anh mang trên Gia Lai về như thế này. Từ mảnh vườn nhỏ ấy những đêm trăng sáng vợ chồng chị sẽ ngồi nhâm nhi tách trà artichaud và ngắm trăng lên, hoa nở. À! Còn phải nghĩ đến chuyện sinh thêm một đứa con gái nữa chứ! Nghĩ đến đó chị cảm thấy thật hạnh phúc. Chị vui sướng vòng tay ôm chồng thật chặt!

Sáng hôm sau, Hoa đưa chồng ra bến xe. Hưng lăng xăng mua vé còn Hoa buồn rầu đứng giữ hành lí. Khi Hưng bước lên xe,  Hoa bỗng bật khóc! Hình như những đè nén và ráng cố quên thực tại trong mấy ngày nay giờ đến lúc chị không thể kiềm chế được!  Hưng hốt hoảng :
_ Sao vậy em? Có chuyện gì vậy? Anh…anh…có làm gì em buồn không?
Hoa ráng nín khóc, chị lắc lắc mái tóc:
_ Dạ, không có gì cả! Tự nhiên đưa anh đi em thấy buồn quá! Vợ chồng mình còn phải chịu cảnh xa nhau như thế này hai năm nữa sao?
Hưng vỗ về:
_ Ừ! Thôi ráng nghen em! Anh cũng buồn lắm! Nhưng cố gắng rồi mình sẽ đoàn tụ nghen em!
_ Dạ! Anh đi nghen! Đừng lo cho em và ráng giữ gìn sức khoẻ!
_ Em ở lại mạnh giỏi, chăm sóc con và đừng buồn nữa nghen!

Hoa quay lưng bước vội đi. Chị bỗng linh cảm có gì đó trong người làm ruột gan chị nóng như lửa đốt. Quay mặt lại nhìn anh, chị thấy anh nhoài người ra cửa sổ xe đưa tay vẫy vẫy. Chị cũng đưa tay vẫy lại và bật khóc nức nở! Ôi! Phải chi chị quên được cái Hồ Sơ bệnh án quái ác kia và phải chi chị đã có thể dễ dàng chia sẻ nỗi lo lắng này cùng anh! 

                                                                           oOo

Hoa đang ngồi trong nhà chấm bài thì nghe có tiếng chân vội vã. Cửa xịch mở và Chị Minh Tổ Trưởng giọng hốt hoảng:
_ Hoa ơi! Nhanh lên, nghe điện thoại Gia Lai!
Hoa  giật mình, vội vàng buông bút:
_ Điện thoại của anh Hưng hả chị? Ảnh mới về thăm mẹ con em đây mà!  Có… chuyện gì sao?
_ Chị không biết! Nhanh lên ! Họ muốn gặp em!
_ Họ…nào? Vậy không phải anh Hưng gọi à?
_ Ừ! Chị nghe giọng lạ!
Hai người vội vàng chạy lên văn phòng để nghe điện thoại. Ngày ấy những giáo viên ở Khu Tập Thể như chị không có điện thoại di đông đều dùng điện thoại chung của nhà trường. Chị run run cầm điện thoại lên, hồi hộp nói:
_ Alô! Hoa đây! Xin lỗi…ai…
Đầu giây bên kia giọng hối hả:
_ Hoa đó hả em? Chị Hồng Công Đoàn nè! Em lên đây gấp nghen! Hưng…Hưng…
Hoa lắp bắp :
_ Anh Hưng…anh Hưng làm sao…làm sao  hả chị Hồng?
Chị Hồng bật khóc:
_ Hoa ơi! Em bình tĩnh nghe chị nói nè! Hưng..Hưng bị té giàn giáo, đang …đang cấp cứu. Em…em lên Gia Lai liền đi em ơi!
Hoa chết điếng, lảo đảo dựa vào tường:
_ Trời ơi! Chị Hồng ơi… rồi sao… rồi sao? Ảnh …có bị sao không???
_ Đang cấp cứu! Em mua vé máy bay đi liền đi nghen, dẫn Cu Thành theo nghen em!
Hoa nức nở:
_ Dạ…Dạ…Em đi liền! Em đi liền!

Khi mẹ con Hoa đến nơi thì Hưng đã mất . Chị Hồng Công Đoàn đã giấu Hoa khi báo tin trên điện thoại. Hưng bị té giàn giáo quá cao và tắt thở ngay sau đó. Công Đoàn đã đứng ra lo cho Hưng, chỉ chờ Hoa lên để nhìn mặt anh lần cuối và lo chuyện lễ tang.  Hoa đã té xỉu khi nhìn thấy xác chồng. Cu Thành mếu máo gọi ba ơi ba ơi con lên thăm ba nè, mở mắt ra đi ba.
Hoa đau đớn nhìn Hưng, không ngờ lần đưa tiễn anh ở Bến Xe là lần cuối chị nhìn mặt chồng. Mắt anh chỉ khép hờ chưa chịu nhắm. Khuôn mặt đau khổ không thanh thản. Chị ngồi xuống bên anh đưa tay vuốt mắt, một dòng máu tươi bên khoé miệng anh trào ra.  Hoa khóc ngất, anh ơi là anh ơi, sao không chờ em, sao anh ra đi tức tưởi như thế này!!!
  
Lúc tẩn liệm có một người phụ nữ trẻ, kĩ sư  Hương, đồng nghiệp của Hưng. Hoa có gặp Hương vài lần khi chị lên Nhà máy thăm chồng. Hương dẫn theo một  bé gái đi chập chững  đến xin cùng phục tang! Hoa sững sờ! Hoá ra cháu bé cũng là con gái Hưng! Cháu bé xinh xắn rất giống anh và Cu Thành.
Hương quỳ xuống bên chị nức nở thú nhận:  
-         Chị Hoa ơi! Em van chị. Cho em cùng chia sẻ nỗi đau này với chị.  Cho em và cháu Thu để tang anh ấy. Em cũng yêu anh Hưng. Đây là cháu Thu, con gái của em và anh ấy! Nghĩa tử là nghĩa tận , chị Hoa ơi!
Hoa lảo đảo, đất trời nghiêng ngã, chị gục xuống bên xác chồng. Bên tai chị văng vẳng tiếng gọi thất thanh của chị Hồng Công Đoàn:
-         Trời ơi! Ai đó gọi giùm xe cấp cứu mau lên! Hoa ơi, tỉnh lại đi em! Cô Hương ơi, tui đã nói với cô rồi, chuyện này để sau rồi hãy tính mà!...

Trần Thảo Nguyên ( 27/3/2012 )

Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012

MÃI LÀ LỜI TRI ÂN.


                                       Irene.

          Chiều xuống chầm chậm. Nắng nhạt dần…nhạt dần trên những vòm cây cao rồi rút chạy ra xa tít về phía cuối trời. Không biết từ bao giờ, tôi lại thích vẻ tĩnh mịch của chiều về. Có thể khi con người tuổi đã cao, thích tĩnh tâm nên thấy tâm hồn mình phù hợp với khung cảnh êm ả của chiều hôm. Mỗi khi chiều về, tôi thấy lòng mình lắng xuống bình yên, thanh thản một cách lạ lùng. Tôi thường ngồi lặng im để nghe tiếng gió vờn trong lá. Lặng im để nghe tiếng chiều bước nhẹ và lặng im để hồn mình trở về lại quãng đường mà mình đã đi qua.
Năm 1972 tôi vào trường Sư Phạm Qui Nhơn. Lúc ấy, tôi chẳng thích học sư phạm chút nào. Vì sau khi tôi đậu tú tài toàn, con đường thi cử tương đối suôn sẻ nên trước mắt tôi chỉ nhìn thấy toàn một màu hồng.
          Tôi hăm hở vào Sài Gòn thi Đại Học. Khi chạm phải thực tế mới thấy không dễ dàng như tôi tưởng. Đó là lần đầu tiên xa nhà, thiếu thốn đủ thứ, phương tiện đi lại khó khăn…Mùa hè 72 cuộc chiến khốc liệt! Chúng tôi vừa mới bước vào chương cuối của chương trình lớp 12 thì trường học đóng cửa, mọi người di tản. Vì thế, kiến thức của chúng tôi hầu hết không được trang bị đầy đủ để thi vào các trường Đại Học. Với lại trước 75, chương trình phổ thông so với chương trình thi đại học là cả một khoảng cách kiến thức. Muốn vào Dược hay Y khoa, phải học qua một năm lớp dự bị thì may ra. Cho nên thi xong thấy không hy vọng. Thôi thì ghi danh vào đại học Văn Khoa. Đang buồn, nhớ nhà thì tôi nhận được điện tín của ba tôi gởi vào báo tin tôi đậu Sư Phạm Qui Nhơn.

          Mùa tựu trường năm đó, “ tấp tễnh người đi tớ cũng đi”, tôi bước vào năm thứ nhất khóa 11.
          Vào Sư Phạm là tôi đã xác định: Đây là trường đào tạo ra những người thầy nên chắc chắn không khí rất là mô phạm và là môi trường để tu luyện chứ chẳng có gì để mà học, để mà vui cả.  
          Nhưng khi vào đây rồi, theo ngày tháng tôi bắt đầu thích khung cảnh. Ngôi trường đẹp, thơ mộng! Bình yên nằm tọa lạc trên một khuôn viên rộng. Mặt trước quay về biển quanh năm gió thổi lao xao và tiếng sóng biển vỗ rì rào. Mặt sau là dãy núi xanh thẫm bao bọc. Con đường đến trường với hàng liễu rủ. Bên trong, sân trường với những hàng hoa giấy nhiều màu sắc. Thoang thoảng mùi thơm của hoa sứ. Những dãy lầu cao của các lớp học hay những hành lang hun hút dẫn về khu nội trú…
          Bạn cùng lớp, nhất là nam, đều sinh năm 1954. Các bạn từ mọi nơi tụ hội về đây: Từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, cao nguyên…Tất cả đều xa lạ nhưng khi tiếp xúc thì   rất là chân chất. Càng ngày tình bạn bè càng thêm gắn bó. Tuổi trẻ nên chúng tôi dễ dàng hòa đồng vui vẻ.  
          Các môn học thì lạ lẫm so với ở phổ thông. Năm thứ nhất chúng tôi đã làm quen với Tâm Lý Giáo Dục, Luân lý Chức Nghiệp, Sư Phạm Lý Thuyết, Sư Phạm chuyên biệt, Giáo Dục cộng Đồng, Dụng Cụ Giáo Khoa, Y Tế Học Đường ngoài ra, còn học các môn như Việt Văn, Nhạc, Hội Họa, Hoạt Động Thanh Niên. Nữ Công Gia Chánh (dành cho nữ) v.v…
          Lúc đó tôi lờ mờ về các môn học. Ngồi trong lớp, thầy cứ giảng còn trò cứ thả hồn đi hoang ...
          Sang năm thứ hai, tôi hiểu hơn một chút về các môn học như : Kinh Tế Chính Trị, Giao Tế Xã Hội, Quản trị & Thanh Tra Học Đường, Sư Phạm thực Hành…
          Các thầy giáo, cô giáo giảng dạy, ai cũng mang một phong cách, một lối sống đạo đức chuẩn mực của một nhà giáo. Thầy Hiệu Trưởng Trần Văn Mẫn lúc nào cũng lặng lẽ nhưng ánh mắt thân thiện. Thầy thường khuyên chúng tôi rằng nếu có điều kiện nên ghi danh học thêm đại học. Các thầy cô phụ trách bộ môn. Ai cũng nhiệt tình giảng dạy. Ai cũng tâm huyết, vận dụng hết các kiến thức từ trong sách vở thành những thực tế đời thường. Các bài dạy về làm người, về giao tiếp, về nghề nghiệp…hầu hết tôi học được từ nơi đây.  Các thầy cô đã truyền hết những kinh nghiệm để mong rằng: Đó là hành trang đủ cho chúng tôi mang vào đời.
          Tôi cứ nhớ mãi câu nói của các thầy lúc chúng tôi mới vào trường : Các anh chị phải xác định là mình đã chọn nghề giáo thì tiếp tục theo nghề còn nếu mình không thích thì ngay bây giờ có thể ngừng lại cũng còn kịp. Đừng mang những điều bực bội, chán nản đem vào trường này!
          Câu nói như một lời khuyên và cũng rất chân thật vì dạo ấy cũng có nhiều bạn trong đó có tôi vì hoàn cảnh thế này hay thế nọ. Bất đắc dĩ không còn con đường nào khác đành phải vào Sư phạm và cũng nhờ câu nói này, chúng tôi xác định được tư tưởng và hướng đi của mình.
          Các thầy cô rất chú trọng đến nhân cách con người. Chú trọng đến tác phong đạo đức của nhà giáo. Chú trọng từ cách ăn mặc, lời nói, cách ứng xử… Tôi còn nhớ! Thầy Võ Sum giáo viên dạy môn Giao Tế Xã Hội thường xuyên nhắc nhở chúng tôi về cách giao tiếp : Các anh chị mỗi khi lên xuống thang lầu, các anh phải nhớ nhường phía tay vịn cho các chị. Khi lên các anh nên đi phía sau, khi đi xuống các anh phải đi phía trước các chị. Khi ra đường nếu đi với các chị thì các anh luôn đi phía bên tay trái của các chị. Các anh phải cầm dù và xách những cái túi  nặng cho các chị nhưng không phải xách hết phải để lại cho chị một cái ví nhỏ, con gái người ta còn có cái để làm duyên.v.v và v.v…Tôi nghe các chị tôi ở những khóa trước kể rằng : Vào thời đó người ta thường nói rằng nam mà vào sư phạm thì “yếu”. Vì thế thầy Mẫn Hiệu Trưởng thường nhắc nhở các giáo sinh nam là:  Chúng ta có thể chấp nhận cho các chị vì họ là phái “yếu”. Các chị mơ mộng, yếu mềm vì có thể trong số các chị ở đây có  người yêu ở xa. Trong những đêm mưa nội trú thao thức nhớ đến người yêu giờ này đóng quân ở một tiền đồn heo hút nào đó? Còn các anh là nam thì không thể có những tư tưởng yếu đuối được, mà phải mạnh mẽ lên! Đừng để mang tiếng : Trai Sư Phạm thế này? Hay thế nọ?…Cứ thế, các thầy dạy rất kỹ những vấn đề nhỏ cho đến vấn đề lớn trong giao tiếp. Mà đúng như vậy! Có những điều rất bình thường nhưng nếu các thầy cô không nhắc nhở thì ta lại không chú ý, không nhớ  hay quên đi.
          Trường Sư Phạm hàng năm tổ chức những cuộc thi văn nghệ giữa các lớp không phải chỉ là thi đua và giải trí mà qua những lần hội thi giúp chúng tôi đoàn kết, gần gũi, thương yêu nhau hơn. Rồi cũng qua những tiết mục văn nghệ thấm đượm tính dân tộc tạo cho chúng tôi tình yêu quê hương đất nước, yêu đồng bào, yêu cộng đồng, yêu trường lớp, yêu nghề…
          Còn rất nhiều điều tôi được học từ các thầy cô dưới mái trường Sư Phạm mà tôi không thể kể hết được. Thế rồi, các kiến thức ấy, các điều ấy ! Cứ đọng lại trong tôi mỗi ngày một ít như  :“ Mưa dầm thấm đất”. Và rồi nó ăn sâu nảy nở trong tâm hồn tôi như những đóa hoa rực rỡ nhiều màu sắc.
          Hàng năm, từ mái trường Sư Phạm Qui Nhơn tiễn đưa lớp lớp những giáo viên lên đường đi khắp mọi miền đất nước. Từ đồng bằng đến miền núi xa xôi hay hải đảo. Các thầy cô đã trang bị cho chúng tôi quá đầy đủ nên chúng tôi không chỉ là những giáo viên dạy Tiểu Học mà còn dạy cấp hai, cấp ba…  hoăc cũng có thể  dạy các môn khác như : Nhạc, Họa, Thể Dục, Ngoại Ngữ…Nhiều người trong số chúng tôi là giám đốc Sở, Thanh Tra, Hiệu Trưởng, giáo viên dạy giỏi… Sau 1975, những giáo học Cấp Bổ Túc ngày xưa ấy lại càng phát huy năng lực. Trong ngành Giáo Dục, chúng tôi đều là những người tiên phong. Chúng tôi giữ vị trí then chốt trong chuyên môn. Trong trường học, Hiệu Trưởng, Hiệu Phó, các Tổ Trưởng Chuyên Môn đa số đều không phải là những người có bằng cấp học vị cao mà là những người chỉ có Chứng Chỉ Khả Năng Sư Phạm Ban Thường Xuyên Hai Năm. Tất cả chúng tôi giảng dạy rất vững vàng, có phong cách riêng, có lương tâm của một nhà giáo chân chính… Trường Sư Phạm Qui Nhơn nói chung và các thầy cô giáo nói riêng đã đào tạo cho chúng tôi thành những giáo viên đa năng.
          Riêng tôi, các thầy cô giáo trường Sư Phạm Qui Nhơn đã đem đến cho tôi rất nhiều: Đó là kiến thức và trải nghiệm. Đó là niềm say mê và sáng tạo. Đó là tính độc lập tự chủ để tìm hướng đi đúng đắn trong nghề. Các thầy cô là những người cho tôi những bài học đầy tính nhân văn mang đậm tình người, tình quê hương, dân tộc. Các thầy cô đã đi qua đời tôi hun đúc tính cách, con người tôi…Các thầy cô giáo âm thầm và lặng lẽ gieo vào hồn tôi những nốt nhạc trầm lắng êm đềm nhưng da diết và sâu sắc.Và điều đó đã giúp tôi suốt những năm tháng giảng dạy luôn có được phẩm chất nhân cách của người thầy. Trên bục giảng, vững vàng về kiến thức. Mẫu mực đối với học sinh và phụ huynh. Bây giờ thì tôi đã hoàn tất công việc của nhà giáo.Tuy rằng trên con đường đến bến bờ ấy không phải lúc nào tôi cũng nhận được sự êm ả. Thế nhưng mỗi khi có những sóng gió, lời thầy cô lại vang vọng giúp tôi mạnh mẽ vượt qua.  
          Xin mãi mãi tri ân các thầy giáo cô giáo! Con xin mượn lời của Carl Jung để bày tỏ lòng tri ân đến các thầy cô, một thời giảng dạy dưới mái  trường Sư Phạm Qui Nhơn :
          “Người ta hồi tưởng lại với sự cảm phục những nhà giáo lỗi lạc với sự biết ơn những người đã tác động vào xúc cảm nhân văn của ta. Chương trình giảng dạy là nguyên liệu cần thiết nhưng năng lượng ấm áp mới là yếu tố cần thiết cho cây lá phát triển và cho tâm hồn của trẻ…
          Con nghĩ rằng không thể thốt lên bằng lời mà nói hết lòng tri ân đối với thầy cô giáo. John. F. Kennedy nói rất đúng là : Khi chúng ta bày tỏ lòng biết ơn, chắc chắn chúng ta không bao giờ quên sự tri ân cao quý nhất không phải chỉ thốt ra bằng lời, mà chính là sống theo những lời tri ân ấy”.

          Sài Gòn, 9/4/2012
                  Irene.

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

MÁI TRƯỜNG XƯA.


                Irene.
        Thương gởi đến chị Nguyễn Thị Hằng khoá 7 SPQN.


          Mùa xuân trôi qua một cách nhẹ nhàng. Ngoài trời, nắng vàng hanh hao gay gắt hơn. Trên cành, những chùm phượng đã lác đác nở. Các chú ve cũng lục đục choàng dậy sau giấc ngủ dài để chuẩn bị cho “ Dàn đồng ca mùa hạ.”
          Từ trường, tôi trở về nhà sau một ngày bận rộn với công việc cuối năm, với việc hoàn tất hồ sơ tốt nghiệp cho học sinh. Bước vào nhà, bất ngờ gặp chị Hằng từ Nha Trang ra thăm…
          Chiều xuống chầm chậm, phố biển trở nên dịu mát nhờ những cơn gió nồm từ biển thổi vào. Hoàng hôn bao trùm cảnh vật. Bóng tối lan dần. Qui Nhơn trở về một sự chuyển biến mới. Thành phố bây giờ còn lại những hình hài đường nét trong cái động và cái tĩnh về đêm.
          Từ đường Nguyễn Tất Thành - An Dương Vương, chúng tôi hướng về phía trường Sư Phạm.
-Sân bay Qui Nhơn đâu em? Xe đang chạy chị Hằng quay lại  hỏi tôi.
-Dạ, mình đang đi trên con đường mà trước đây là sân bay đó chị.
Tôi vừa nói, vừa lấy tay chỉ một vùng trước mặt và phía sau.
          Chị nhìn quanh rồi dường như không thấy còn sót lại một dấu vết cũ xưa nào. Chị hỏi:
-Em ơi, Eo Nín Thở nằm ở hướng nào?
          Vòng xe lại, chúng tôi đến Eo Nín Thở. Những cơn gió biển thổi vào mang theo cái vị mằn mặn của biển. Không có “cái mùi” mà chúng tôi phải “nín thở” mỗi khi qua lại nơi này. Không còn cái khúc quanh với những hàng rào kẽm gai ranh giới với sân bay Qui Nhơn. Chỗ chúng tôi đứng là những chiếc xe bán nước giải khát, sau lưng là công viên cây xanh…
Mỗi chúng tôi như đắm chìm trong kí ức của một thời. Riêng tôi, tôi thấy tuổi trẻ của mình hiện rõ với những ngày mưa, ngày nắng trên những chuyến xe Lam đến trường hay về nhà. Tuổi thanh xuân phơi phới với bao niềm vui…
          Giọng chị Hằng nhè nhẹ, kéo tôi về với thực tại:
-Bao nhiêu năm nay, chị ao ước có một ngày về thăm lại trường xưa, thăm lại khung trời cũ thân thương, thăm lại con đường …thăm khu nội trú…Nhớ quá đi! Ngôi trường Sư Phạm! Nhớ thầy cô và bạn bè! Nhưng rồi cuộc sống cứ cuốn đi, chị chẳng có dịp. Thế nhưng lúc nào trong tâm thức chị cũng vang lên tiếng vọng từ ngôi trường. Tiếng vọng từ sóng biển, từ tiếng gió vi vu qua hàng dương hay tiếng của ai đó gọi, thôi thúc chị trở về! Rồi chị nghe tin Len mất! Chị bàng hoàng, sững sờ đến lặng người. Chị quyết định trở về thăm lại trường, đi thăm mộ phần của bạn. Cuộc đời này quá ngắn ngủi! Mới đó mà người còn người mất…giọng chị nhỏ dần.
          Chị Hằng là bạn thân với chị tôi. Các chị học khoá 7. Sau khi ra trường, hai chị chọn nhiệm sở Cam Ranh. Mùa xuân 75 mỗi người một phương không nghe tin tức về nhau…
          Thật tình mà nói, tôi ở Qui Nhơn nên có rất nhiều dịp đi qua lại ngôi trường Sư Phạm. Mỗi lần như thế, tôi thường ngoái đầu đăm đắm nhìn thật lâu cho đến khi khuất hẳn. Nhưng chưa bao giờ mạnh dạn bước vào trường thăm lại khung cảnh cũ. Có lẽ tôi sợ lạc lõng, sợ hụt hẩng, sợ một mình bơ vơ giữa cảnh và người… Rồi chiều nay, thật bất ngờ khi chị Hằng từ Nha Trang ra. Chị nói lên điều mong ước và niềm khát khao trong tôi bùng lên. Chúng tôi như đồng cảm! Thế là, tối hôm đó, vội vã về thăm trường.
          Dừng lại trước cổng trường. Cánh cổng đóng im lìm. Ánh đèn đường hắt chéo vào một màu sáng vàng vàng nhưng cũng không soi rõ bên trong. Sau một hồi, chúng tôi lùi lại và tìm lối đi vào trường. Lối đi phía sau nhà thầy Bồn, đi ngang qua nhà thầy Sum, thầy Mẫn ngang qua hàng hoa sứ…Chúng tôi vào được sân trường. Sân trường im vắng chỉ có ba chúng tôi: Chị Hằng khoá 7, chị kề tôi khoá 10 và tôi khoá 11.
          Thật vui mừng như tìm lại những gì thân thương. Trong tâm trí tôi, những kỉ niệm cứ dồn dập ùa về…Tôi nhớ mỗi sáng thứ hai chào cờ ở sân trường, tà áo dài trắng bay bay trong gió. Những khuôn mặt hớn hở vui tươi trong nắng mai…
Đằng kia là sân tập thể dục, tôi nhớ như in tiếng còi của thầy Phan Minh Ba cất lên là chúng tôi nhanh chóng ra sân. Nam nữ ăn mặc gọn gàng, chân mang giày Bata bước đều mạnh mẽ, hiên ngang hát vang: “Đoàn người tưng bừng về trong sương gió. Hồn như đám mây trắng lững lờ. Giang hồ không bờ không bến đẹp như kiếp Bô Ê Miên. Ánh dương lên, một đoàn thanh niên…”
Tôi nhìn sang bên phải, bao nhiêu năm rồi hội trường vẫn còn đó. Dường như văng vẳng âm vang rộn ràng tiếng trống, tiếng đàn, tiếng hát… của những đêm hội diễn văn nghệ  hay tiếng khua chén bát hằng ngày vào mỗi bữa ăn của các bạn nội trú…
Cứ thế, chúng tôi đi lần vào bên trong. Tiếng vọng từ dãy lầu phòng học. Tôi thấy mình sáng sáng, chiều chiều lên xuống những bậc thang lầu vào phòng học hay đứng dựa vào góc trụ, lan can lầu…nhìn xuống công viên ghế đá, hoa sứ thoang thoảng đưa hương hay ngắm những đoá hoa hoàng anh vàng tươi khoe sắc. Những giờ học Tâm Lý với thầy Đàm Khánh Hỷ, giờ Giao Tế Xã Hội thầy Võ Sum, giờ Quản Trị Học Đường với thầy Toản, Sư Phạm Lý Thuyết thầy Nở, Giáo Dục Cộng Đồng thầy Bồn, Toán Học Ứng Dụng thí nghiệm cùng với thầy Học…Giờ Nhạc thầy Hoàng Hy, giờ Hội Hoạ thầy Phan Thâm…Tất cả các thầy đã trang bị kỹ càng, đầy đủ cho chúng tôi những tác phong của người thầy, những kiến thức quý giá để sau đó làm hành trang vào nghề, vào đời.
 Preo với những giờ Hoạt Động Thanh Niên trò chơi " Làm mèo" hình ảnh bạn Hoàng Phượng khóc thút thít khi bị làm mèo vẫn còn in đậm trong tôi. Mới ngày nào chúng tôi đi vòng hát vang những bài hát thiếu nhi " Kìa con bướm vàng! Kìa con bướm vàng! Xoè đôi cánh, xoè đôi cánh..."  hay " Con gì kia nó ngồi là ngồi trong hang. Nó quay cái lưng ra ngoài đó là con cóc..." 
          Cứ thế, tôi bước đi trong im lặng, trong hoài niệm....
          Hành lang dài hun hút dẫn về khu nội trú Nữ. Cả ba ngỡ ngàng vì cửa đóng then cài. Không còn phòng trực với cô giáo sinh trực tà áo dài trắng cây bút và cuốn sổ trên tay miệng tươi cười chào khách lạ. Không còn bãi cỏ xanh với những đóa hoa forget me not tim tím dễ thương hay những cánh hoa cúc dại vàng tươi…và cũng chẳng còn tiếng lao xao rộn ràng của các bạn đi về...
          -  Các cô hỏi ai ? Một người đàn ông thấy chúng tôi thập thò trước cửa nên bước ra hỏi.
  Chị Hằng bộc bạch:
          -  Chúng tôi là những cô giáo, trước 75 học ở trường này. Nay trở lại thăm trường.
          -  Mời các cô vào! Vừa nói anh ta vừa mở cánh cửa.
  Chị kề tôi nói:
          -  Lúc xưa chúng tôi học, đây là khu nội trú nữ.
          -  Vậy hả? Bây giờ, đây là chỗ làm việc của ngành khoa học. Anh giải thích...
  Tôi nhìn các bảng treo trên các phòng...Phòng Vật Lí, Phòng Thí Nghiệm Hoá Học…
   Chị Hằng chỉ căn phòng lúc xưa chị ở nội trú. Chị đứng đó thật lâu như sống lại thời đôi mươi…
   Sau một hồi tham quan, chúng tôi cám ơn anh ta và quay trở ra.

          Ngôi trường vẫn nhập nhoạng sáng tối trong ánh điện. Đêm trở mình bởi những cơn gió lao xao. Công viên trường là một khoảng tối trước mặt. Vang vọng đâu đây bài hát của đêm mãn khóa 11: Đêm bây giờ đêm mai của TCS. " Ôi! Đêm dài và cơn bão rớt. Trên dãi đất quê hương khô cằn. Ôi! Bom đạn cày trên những xác ... Đêm bây giờ, đêm quá hư vô. Ôi con người mang trái tim khô. Đêm bây giờ thắp sáng âu lo.Hai mươi năm buồn vui hững hờ..."
  Bây giờ ngồi đây sau bao nhiêu năm tôi thấy các thầy chọn bài hát trong đêm mãn khoá 11 thật phù hợp và ý nghĩa với tâm trạng chúng tôi trong bối cảnh lịch sử đất nước. Hai mươi năm từ khi chúng tôi sinh ra (1954-1974) chiến tranh, bom đạn. Tuổi trẻ chúng tôi có gì? Được gì?
  Bài hát cất lên đêm đó như một sự cảm thông như một sự sẻ chia của những người đi trước với những người em đi sau là rồi đây khi các em ra trưòng trên mọi nẻo đưòng đất nưóc biết bao gian khổ, chông gai, hiểm nguy đang đón chờ. Như một lời tiên tri. Con đưòng khoá 11 chúng tôi đi, không bằng phẳng, không suôn sẽ, không yên bình và cũng không phải là thảm nhung với hoa hồng như tuổi trẻ chúng tôi hằng mơ ước mà là bộn bề những vất vã, đối diện với sự khốc liệt của chiến tranh, cảnh chết chóc thê thảm...Sau 75 lại càng …
 
  Chúng tôi ngồi xuống bậc tam cấp nhìn ra sân trường, xung quanh vắng vẻ, quạnh hiu. Nỗi nhớ bùng lên! Thầy cô giờ này ở đâu? bạn bè đâu hết rồi? Một cảm giác lành lạnh trống vắng len vào hồn. Sương đêm xuống, tôi nghe rõ mồn một tiếng xào xạc của gió qua hàng cây, tiếng sóng biển xa xa... tiếng côn trùng rên rĩ...và cả tiếng vọng từ đâu đó gọi người về.
  ".... Các em biết không? Mình cứ ngỡ rằng : Thời gian sẽ gíúp quên đi tất cả nhưng không phải thế! Có những kỉ niệm cứ sống và luôn theo ta cho đến lúc ta xuôi tay nhắm mắt...Chị mong gặp lại thầy cô, bạn bè biết đâu mình chẳng còn cơ hội nữa…" Giọng chị Hằng nghèn nghẹn, tiếng thở dài đầy tiếc nuối.

          Thoắt cái, thế mà đã mười mấy năm trôi qua kể từ cái đêm hôm chúng tôi lặng lẽ về thăm lại trường xưa…Sau đó, cuộc sống đẩy đưa tôi rời xa Qui Nhơn, tạm biệt khung trời kỉ niệm, bỏ lại sau lưng những buồn vui của một thời.
Vào Sài Gòn, những ngày nắng, những chiều mưa hay những lúc thoáng có những cơn gió trở mùa…nỗi nhớ bạn bè, trường lớp lại đau đáu trong tôi. Tôi cố gắng tìm gặp và liên lạc được nhiều anh chị em cùng trường cùng khoá ờ hải ngoại hay trong nước. Tôi nhận ra một điều là: Tất cả chúng tôi, ai đã từng có một thời học dưới mái trường Sư Phạm Qui Nhơn (1962-1975) cũng đều ước mong có một dịp nào đó cùng bạn bè nắm tay nhau trở về thăm lại trường xưa. Vẫn biết rằng phải có “nhân duyên” mới “hạnh ngộ” nhưng tất cả chúng tôi đều có cái tâm hướng về nhau, hướng về mái trướng xưa thế nào rồi cũng được toại nguyện.
Và với tâm nguyện ấy! Với niềm mong ước thiết tha ấy! Như một khát khao thôi thúc. Để rồi năm nay, tháng 5 năm 2012, ước mơ đó sẽ thành hiện thực.

Đà Nẵng, 25/03/2012.
Irene.       

LinkWithin

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...