Trích tác phẩm "Nước Mắt Của Rừng" - Amai B’lan
Phùm Gi cách buôn Nu khoảng sáu cây số thôi nhưng có tới
hai kiểu đường. Hai cây số đầu là đường nhựa láng o, khoảng bốn cây số sau thì
lởm chởm đá, ổ gà và mịt mù bụi bặm. Buôn nằm cạnh quốc lộ 25, bên cạnh con đường
rách nát y như bản thân mình vậy. Đi ngang qua nhìn vào buôn, sẽ thấy những
ngôi nhà sàn nhỏ bé đứng cạnh nhau, rúm ró, buồn bã và nín nhịn. Cả buôn có khoảng
70 nóc nhà. Chín mươi chín phần trăm là người Jrai và một gia đình người Kinh đến
bán tạp hóa giữa làng...
Cũng như những buôn khác, Phùm Gi sống bằng nghề nông.
Trước kia họ trồng lúa, còn bây giờ chuyển qua trồng mì vì mì có giá hơn. Họ
cũng trồng thêm lúa, mè, bắp, hột dưa và nuôi bò dê tăng thu nhập. Nương rẫy
Phùm Gi nằm bên kia sông Pa, dưới dãy núi cao ngất, vì đất bên này bán cho người
Kinh hết rồi. Muốn lên rẫy, họ phải vượt sông bằng chiếc ghe nhỏ, hai tay hai
mái chèo bơi đi như vịt, trông rất nguy hiểm.
Rẫy xa, bố mẹ đi làm từ sáng đến chiều mới về, mấy đứa
nhỏ ở nhà tự tìm cái ăn. Nấu cơm được thì ăn, không thì chạy qua nhà hàng xóm
ăn ké. Có bữa tôi thấy tụi nhỏ ăn xoài trừ cơm. Bí quá không kiếm được cái gì bỏ
vào miệng thì nhịn. Ăn uống thất thường, thiếu chất, nên đứa nào đứa nấy cũng bụng
ỏng đít beo, không lớn lên được mà cứ quắt lại.
Người Jrai thương con vô cùng nhưng lại không biết
cách chăm sóc con cái. Họ để quần áo chúng rách rưới, đầu tóc dơ bẩn, mặt mày
lem luốc. Mỗi chiều tắm xong, đám trẻ đứng trên những tảng đá cao ngóng bố mẹ từ
bờ bên kia chèo về như những con chiên lạc không người chăn dắt...
Tối đến, tôi còn đang ăn dở chén cơm thì các em tới. Tất
cả là 25 em cả trai lẫn gái, một con số khá ấn tượng trong buổi gặp đầu tiên. Đứa
lớn nhất 19 tuổi và nhỏ nhất năm tuổi. Học cao nhất lớp tám và có tới một nửa
chưa biết chữ là gì.
Các em tới, rất vô tư và tự nhiên ngồi xuống xung quanh
tôi, líu lo như một đàn chim.
Các em tới vì biết hôm nay có người đến buôn của các
em và dạy một cái gì đó, chỉ vậy thôi.
Các em tới với đôi mắt to tròn, đen láy và hàng lông
mi cong vút lúc nào cũng mở ra nhìn tôi.
Các em tới, đi chân đất, mặc nguyên bộ quần áo còn ẩm
ướt lúc chiều tắm bên sông Pa.
Các em tới với hai bàn tay trắng, thừa sự háo hức
nhưng đầy vẻ ngại ngùng.
Chúng tôi ngồi bên nhau, làm quen và phác họa rất
nhanh chương trình học. Một tuần sẽ học năm buổi. Từ thứ hai tới thứ sáu. Lúc bảy
giờ đến chín giờ tối vì ban ngày các em đều bận đi chăn bò. Sau giờ học sẽ sinh
hoạt vòng tròn, tập hát, kể chuyện hay chiếu phim tùy nhu cầu.
Tôi biết trong buôn các em yếu nhất hai môn toán và tiếng
Việt nên chỉ tập trung dạy hai môn đó. Ban ngày tôi rảnh, ai cần học cứ tới,
tôi dạy hết. Bọn trẻ khoái chí, vỗ tay rần rần và hẹn tối mai rủ thêm bạn tới.
Khi bọn trẻ về hết và chỉ còn lại một mình trong ngôi
nhà trống trải, thì tôi tự hỏi chính mình:“Thế là lớp học của tôi bắt đầu thật
rồi sao?” Bắt đầu mà chẳng có gì cả. Không bàn không ghế. Không phấn không bảng.
Không sách vở bút viết. Đến cả ánh sáng cũng nhờ nhợ như một vì sao xa. Chúa
ơi, Chúa đã dẫn con tới đây thì xin Chúa cũng hãy chỉ bảo cho con biết con phải
làm gì nhé. Và Chúa đã nhận lời.
Ngài chỉ cho tôi biết việc đầu tiên là tôi hãy quá
giang xe về Ia R’siơm vào sáng hôm sau để mua sách vở, bút viết cho bọn trẻ,
sau đó về nhà ama tìm một tấm ván làm bảng. Tôi không quên mang theo ít thuốc
Panadol phòng ốm đau. Anh Wiêng xung phong làm xe ôm chở tôi về lại Phùm Gi với
bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh trên người.
Qua tới nơi mới biết còn thiếu một thứ rất quan trọng,
đó là bàn học. Thế là cô trò hì hục vác những tấm ván ở chuồng bò nhà ami H’hot
ra sông Pa cọ rửa, lau khô. Tôi mượn ba cái ghế nhựa nhà ami H’hot làm trụ mà vẫn
không đủ, liền mượn luôn cả cái cối giã gạo của nhà bên cạnh. Vậy là có những
cái bàn ngon lành. Tưởng thế là ổn, ai dè học trò đông quá, lên tới 35 em,
không có đủ bàn, thành thử, khoảng một phần ba lớp học phải nằm, quỳ hoặc bò ra
mà viết. Học trò của tôi viết trên những cái bàn thô kệch ấy. Những dòng chữ
ngoằn ngoèo, đôi khi dơ bẩn, tẩy xóa tùm lum, duy chỉ có đôi mắt là sáng như
sao và sự chăm chỉ đến tê người. Nhìn học trò lăn lóc viết, tôi như chết lặng.
Ôi! Có nơi đâu đi kiếm con chữ mà khổ sở đến vậy không
hả trời?
Tôi phát cho mỗi em một cây viết và một cuốn vở, bắt
các em viết tên của mình vào vở, khi học xong tôi thu bút vở lại, kẻo bọn trẻ
mang về xé vở làm diều hết. Bữa sau tới học, tôi lại phát ra. Thế là bảo toàn
được lực lượng. Cứ nhìn gương mặt háo hức nhận vở của bọn nhóc mà thấy vui lây.
Có nhiều em chưa biết viết, phải nhờ mấy bạn lớn viết
hộ tên. Người Jrai có nhiều cái tên đọc muốn méo miệng mà vẫn không trúng, tiếng
Việt cũng không biết phải viết thế nào. Những em chưa biết viết không theo kịp
anh chị lớp lớn, tôi cho ngồi riêng ra một góc rồi cầm tay tập viết cho từng đứa.
Có cầm tay bọn nhóc, có đặt mũi vào mái tóc cháy nắng và bộ quần áo khét lẹt, lấm
lem bùn đất và sực nức mùi phân bò của bọn nhóc, mới thấy xót xa cho các em.
Còn bọn trẻ thì cứ nắm chặt bút, mím chặt môi viết như sợ từng chữ bay đi mất.
Học xong, tôi cho sinh hoạt vòng tròn. Từ trước đến giờ,
chưa có ai đến với các em, dạy dỗ các em và cho các em chơi các trò chơi mà
đáng lí tuổi của các em phải được chơi... Qua một ngày vất vả ngược xuôi, sau
dãi dầu mưa nắng, thì giờ đây, các em được tha hồ sống thật với bản tính hồn
nhiên vô tư của tuổi thơ. Các em không còn vẻ lam lũ của những đứa trẻ chăn bò
nữa, mà thay vào đó là những gương mặt linh hoạt, nụ cười rạng rỡ và ánh mắt
lung linh.
Tôi thích đứng một mình nhìn các em ra về sau khi giải
tán, vì lúc đó, men chơi còn chất ngất, khiến đứa này chọc ghẹo đứa kia, để rồi
cả đám đuổi bắt nhau, tiếng cười giòn tan như bắp nổ rộn rã trên đường làng.
Bóng bọn trẻ khuất lấp trong màn đêm rồi đậu xuống dưới một mái nhà, mang theo
vào giấc ngủ nụ cười trên môi. Hôm nay trăng sáng, tha hồ chơi, gần mười giờ rưỡi
các em mới chịu về.
Mấy chục cái miệng thi nhau chúc tôi “pit hiam” (ngủ
ngon) rồi ùa chạy đi trên con đường làng đầy ánh trăng, tiếng cười trong veo
như nước suối cứ trầm bổng rồi tan theo núi rừng vào thinh không. Tối nào cũng
có vài chục người chúc ngủ ngon. Không muốn cũng sẽ ngủ rất ngon, hỡi những
thiên thần Jrai.
(Amai B’lan. Nước Mắt Của Rừng. San Jose: Nhân Ảnh,
2013.)
Xem thêm một đoạn trích khác:
(Làm sao tôi có thể kể cho các em biết rằng người Kinh
của chúng tôi đang giết chết dân tộc các em từng ngày từng giờ. Amai B’lan)
Buôn nằm cạnh quốc lộ 25, bên cạnh con đường rách nát y như bản
thân mình vậy. Đi ngang qua nhìn vào buôn, sẽ thấy những ngôi nhà sàn nhỏ bé
đứng cạnh nhau, rúm ró, buồn bã và nín nhịn. Cả buôn có khoảng 70 nóc nhà. 99%
là người Jrai và một gia đình người Kinh đến bán tạp hóa giữa làng...
Giữa buôn có trường làng, chỉ một phòng học. Lớp một học
buổi sáng. Lớp hai học buổi chiều. Lên lớp ba thì qua học ké Phùm Ang cách đó
chừng hai cây số. Lên lớp sáu thì phải vào Ia R’siơm học. Cả buôn từ trước đến
nay chưa có ai tốt nghiệp lớp 12...
Một hôm, tôi hỏi các em có biết các em đang sống ở nước
nào không. Cả lớp im phăng phắc nhìn nhau, phải gợi mãi, cuối cùng một em ngập
ngừng nói:
- Nước Việt Nam phải không cô?
Tôi hỏi tiếp:
- Ai biết, trên thế giới còn nước nào khác?
Lần này thì cả lớp hào hứng hẳn lên, rồi một em nhanh
miệng nói:
- Dạ, nước sông Pa ạ.
Tôi không tài nào nhịn được cười bởi câu trả lời ngây
thơ ấy, nhưng ngẫm lại thì thấy chua xót quá. Buôn làng của các em bị những ngọn
núi chất ngất kia bủa vây, cuộc sống của các em chỉ có nương rẫy, trâu bò và
dòng sông miệt mài chảy. Mọi biến chuyển của thế giới bên ngoài không lọt tới
cuộc sống của các em được.(Amai
B’lan. Nước Mắt Của Rừng. California: Nhân Ảnh, 2013).
Vẫn cứ theo lời của cô giáo Amai B’lan:
Cả Phùm Gi không có lấy một cái giếng. Đất nơi đây
toàn đá, đào giếng rất cực mà chẳng có nước, nên tất cả mọi sinh hoạt đều dùng
nước sông Pa. Sáng sáng, trước khi lên nương, những cô gái trong buôn đeo gùi
ra sông lấy nước. Họ vét một hố cát, ngồi chờ nước thấm vào, rồi múc từng gáo
nước đổ vào quả bầu khô gùi về nhà. Nước để nguyên trong quả bầu, không nấu
nướng gì hết. Khi nàouống cứ việc xách quả bầu lên tu một hơi căng bụng đã đời.
Ai chịu khó hơn thì chèo thuyền qua sông, tìm tới những con suối trên núi.
Người ta nói nước suối uống ngon nhất, sau đó mới tới nước sông, nước giếng xếp
hạng ba.
Cứ chiều đến, tôi lại ra sông nhìn người dân từ bờ bên
kia chèo thuyền về. Nắng vàng trải xuống lòng sông sóng sánh như lụa. Trời cao
xanh. Núi ngút ngàn. Cảnh tượng trông bình yên đến lạ. Con nít giờ đó cũng ra
sông tắm rửa, mong ngóng bố mẹ. Phụ nữ tranh thủ lấy nước, giặt giũ quần áo.
Bến sông trở nên nhộn nhịp hẳn. Cũng ở đây, tôi nghe người dân kể về sông Pa
với giọng điệu tiếc nuối. Họ nói:“Ngày trước sông Pa trong xanh lắm, lại có
nhiều cá nữa.
Gần đây có một cái thác rất đẹp gọi là thác tiên. Bây
giờ thì hết rồi. Mấy năm trở lại đây, sông Pa bắt đầu đục ngầu vì ô nhiễm,
nhưng người dân đâu còn cách nào khác là cứ phải tiếp tục uống thứ nước đó.
Nguồn nước ô nhiễm kéo theo bệnh tật. Viêm khớp, đau thận, đau bao tử là những
bệnh ít người thoát được. Theo họ, thà chết từ từ vì bệnh còn hơn là chết ngay
tại chỗ vì khát.
Trong buôn hầu như không có người già bởi lẽ đâu ai
sống thọ tới 60. Phân nửa học trò của tôi mồ côi cha hoặc mẹ từ khi còn rất
nhỏ...
Cuộc sống của họ nếu cứ thế trôi qua thì cũng đã bần
cùng lắm rồi. Thế mà một ngày kia, cách đây khoảng hai năm, công ty Hoàng Anh
Gia Lai lập dự án xây thủy điện. Để có đất xây thủy điện, chính quyền lấy đất
của dân lại mà không hề đền bù một xu, rồi bán lại cho Hoàng Anh Gia Lai. Kết
quả, dự án đó nuốt hết một nửa buôn Phùm Gi và nuốt luôn cả sự linh thiêng ở
đây...
Con sông Pa dài 374 cây số chảy qua ba tỉnh Kontum,
Gia Lai, Phú Yên, nhưng lại phải đeo tới năm cái gông thủy điện vào cổ. Thủy
điện Đồng Cam, thủy điện Ba Hạ, thủy điện An Khê, thủy điện Ayun Hạ, thủy điện
Ayun Thượng. Bây giờ thêm một cái cạnh Phùm Gi này nữa là sáu. Tính ra, trung
bình cứ hơn 60 cây số là bị một đập. Ngày nay, các nước trên thế giới không
chơi thủy điện nữa vì nhiều tác hại, đến cả người dân nơi đây cũng biết. Họ
thấp thỏm lo sợ tới một ngày mình phải bỏ buôn ra đi vì đập tràn. Và điều đó đã
tới trước khi tôi rời nơi đây một tuần.
Dòng sông mùa khô cạn đến mức trâu bò có thể lội qua,
nay dâng nước lênh láng tràn bờ. Người ta đã ngăn đập lại. Con đập cách buôn
chừng 200 mét nên Phùm Gi gánh chịu hậu quả nặng nề nhất và nhanh nhất của việc
ngăn dòng. Nước dâng lên tới sau nhà dân, bò vào vườn tược và gieo rắc nỗi kinh
hoàng...
Dòng sông hiền hòa ngày đêm có tiếng thác đổ nay hết
rồi.
Những chiều ra sông lấy nước nay cũng hết rồi.
Dòng sông bây giờ là một đường băng nước khổng lồ, dơ
bẩn và đục ngầu. Nước đã dâng lên hơn hai mét. Mọi người không còn thấy con
sông Pa quen thuộc đâu nữa, mà chỉ thấy một con quái vật lúc nào cũng chực chờ
muốn nuốt chửng buôn làng...
(S.đ.d trang 103-109).
Đọc xong bài này tôi cũng thấy rưng rưng theo từng giọt " nước mắt của rừng " và ngậm ngùi nhớ về bài hát :
Trả lờiXóaAnh em ta cùng MẸ CHA , nhớ chuyện cũ , trong tích xưa , khi thế gian còn mù mờ .
Xưa khi xưa MẸ đẻ ra TRĂM CÁI TRỨNG sinh lũ con , TRĂM ĐỨA CON cùng MỘT DÒNG ...
Hãy đồng cảm cùng cô giáo trẻ này để chung bàn tay giúp đỡ Đồng Bào ruột thịt đang khốn khó .
Đọc " Phùm Gi . Nước mắt của rừng " nhiều lần . nhiều lần ko phải để quan tâm mà là để nhớ lại chuyện của mình :
Trả lờiXóa1980 theo chân ong phó sở GD lên núi xây dựng giáo dục 12 xã miền núi ( vùng căn cứ)
Càng đi sâu vào rừng càng thấy dc người anh em đen như gỗ mun , mạnh mẽ và lầm lì như đá núi, phụ nu ngực trần có em đẹp như tượng, còn trẻ con thì trùng trục khỏe như quả bí quả bầu dưới nắng ..nói chung là hiền hòa như cỏ khô .
Tôi thật sự yêu thương họ ....gần 3 năm ngủ với rừng , ăn lô hông, ma nú ,nhum lắc rượu cần...mới thây khổ cực quá quen nhưng học hành thì quá lạ ...lạ dến nỗi cho đến bây giờ vẫn còn cái lop Phùm Gi ....
(viet tiep )..điều đó ai nhìn cũng lạ ...những đúa trẻ đi tìm cái chữ như dê núi bên vách đá lởm chởm trên cao nguyên đá Đồng văn...và cứ thế ..cứ thế thôi. Trách nhau thì cũng phải.
Trả lờiXóaDân cư thưa thớt, nhà cách nhà mấy dặm sơn khê ..có chăng là cho họ điều kiện để tự đúng lên ,tự lo, ko trông chờ , ko ỷ lại..như họ đã từng chắt chiu từng nắm đất duoi bằng ,leo bò qua từng vách đá để trồng ngô lúa kiếm cái ăn...thế nhưng họ lại mãi cứ trông chờ...
Nguoi Jrai anh em oi ..hãy quyết tâm hơn nữa