Hàn Diệu
Phương
Kính dâng muôn ngàn bông hoa tươi thắm lên má Diệp Quỳnh Anh, người mẹ tuyệt vời của
chúng con.
Diệu Phương và Mẹ - những ngày còn ở Qui Nhơn |
Chiếc phi cơ
của American Airline rời phi đạo và từ
từ cất cánh bay lên cao. Thành phố Toronto xinh đẹp với hồ rộng, cây cối xinh
tươi, những tòa nhà cao ngất, xe cộ dập dìu bây giờ chỉ còn là những chấm li ti
nhỏ xíu… rồi biến mất. Trước mắt tôi là những tảng mây trắng trôi bồng bềnh trên
bầu trời xanh trông tuyệt đẹp. Có đám mây nhìn như những ngôi nhà, những bức
tranh vân cẩu, như những đóa hoa trắng trong vườn nhà tôi …Tất cả đều trắng xóa như tuyết,
như mái tóc của má tôi.
Mở Laptop tôi
thấy một email mới có những câu thơ :
“ Nhìn bóng phi
cơ lẫn bóng chiều ,
Chơi vơi hồn mộng
bến cô liêu…
…
Phương ơi anh
nhớ em ghê lắm !
Dù chỉ xa nhau
mới một giờ…
À ! thì ra ông
xã tôi sửa thơ của ai đó để tặng tôi mỗi lần gấp quá chưa làm thơ kịp. Cưới
nhau đã hơn ba mươi mấy năm rồi mà mỗi lần xa nhau anh đều lưu luyến. Lần này
tôi chỉ qua New York để dự sinh nhật 83 tuổi của má tôi có một tuần, mà anh ấy
cũng nhớ thương. Mỉm cười trong hạnh
phúc đang có và nghĩ đến cuộc đời khổ hạnh của má. Tôi thương má quá đi thôi !.
Đóng máy lại, tiếp tục nhìn mây trôi lờ lững tôi thả hồn về dĩ vãng, thuở tôi
còn độc thân sống với ba má ở quê nhà.
Sinh ra tại Mỹ
Tài, Phù Mỹ nhưng thuở ấu thơ và lớn lên tôi sống ở Qui Nhơn nhiều nhất. Thành
phố biển gắn liền với tôi nhiều kỷ niệm với những lời ru, à ơi ngọt ngào của mẹ vào những buổi tối hay
những buổi trưa hè. Những sáng tắm biển với người thân. Buổi trưa hay giờ ra
chơi thơ thẩn cùng bạn học tán dóc, ăn quà vặt khi còn học Nữ Trung học, Sư
Phạm Qui nhơn. Những lần cúp cua giờ Anh văn đi xem phim miễn phí khi rạp cine
Kim Khánh của cậu tôi có phim hay. Những buổi chiều cùng đồng nghiệp, học trò
trường Trần Hưng Đạo đạp xe đạp đi vòng quanh thành phố hóng gió, leo núi hát
ca , tâm sự... Đi ăn kem “chùa” ở tiệm Thanh Ký của chị họ tôi , hay uống nước
đậu ăn bánh nướng (pateschaud) gần trường Bồ Đề. Thỉnh thoảng đi xa hơn một
chút để ăn nem chợ Huyện. Đi du ngoạn ở tu viện Nguyên Thiều... Còn nhiều kỷ
niệm ở nhiều nơi lắm kể sao cho hết ?...
Qui nhơn trước
năm 1975 có những con đường mang tên các vị vua, các anh hùng của nước Việt như:
đường Gia Long, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Phan Bội Châu , … và Võ Tánh là một con
đường tương đối rộng rãi và đẹp nhất, nhì thành phố Qui Nhơn với hàng cây xanh
mướt hai bên đường. Trên con đường này ở số 31 Võ Tánh gần khu Hai ,đường
Nguyễn Huệ là ngôi nhà thân yêu mà má tôi đã mua để mấy anh em chúng tôi có thể
đi học hai trường Hoa duy nhất trong thị xã, đó là trường Sùng Nhơn và Triều
Thuận.( Chỉ trừ tôi là không học chữ Hoa). Đây là nơi có nhiều kỷ niệm thân
thương của tôi với gia đình và nhất là với … má tôi.
Nếu có ai hỏi
tôi : “Trên đời này thương ai nhất ?”
Tôi sẽ không ngần ngại trả lời, người tôi thương và kính trọng nhất là má tôi –
“Người Mẹ Tuyệt Vời “của mười đứa chúng tôi :Hàn Lộc Định, Diệu Phương, Thành
Định, Chí Định, Vinh Định, Ngọc Dung, Phương Thảo,Thùy Linh, Mai Chi và Huê
Định.
Đã từ lâu, tâm
nguyện của tôi và cũng là của anh chị em tôi là sẽ viết một bài viết, làm một
DVD ngắn về Má tôi và cuộc đời về cuộc hành trình gian khổ của một “Single mother
“ (Người Mẹ không chồng) đem 10 đứa con đến nơi đất khách lập nghiệp. Những khó
khăn gian khổ ban đầu của một người vợ không chồng bên cạnh nuôi 10 đứa con nơi
xứ lạ, quê người.
Tôi rất muốn làm
điều đó để tặng má vào ngày sinh nhật, ngày lễ Mẹ hay mỗi mùa báo hiếu Vu Lan. Nhưng
ngày tháng cứ trôi đi. Xuân về, Hạ đến, Thu đi , Đông tàn, rồi năm này qua năm
khác, mãi vật lộn những khó khăn để mưu sinh ở xứ người nên tôi không có dịp.
Nay thấy má đã già, không rành viết văn nhưng tôi vẫn cố gắng viết tặng má
trong lúc người còn minh mẫn mà đọc được.
Nghe ngoại kể lại
thì lúc còn trẻ má tôi là Hoa khôi ở An Thái, Bình Định. Má có vóc dáng mảnh
mai, tay chân mềm mại, mủm mỉm, nước da trắng trẻo và khuôn mặt thanh tú, dịu
hiền, không đẹp sắc sảo như dì Lạc tôi. Bây giờ đã hơn tám “bó” má cũng còn mặn
mà lắm. Thời đó có rất nhiều chàng trai yêu mến theo đuổi má và má có thương
một người trong số đó mà ngoại không chịu gả vì chê người đó nghèo và ép gả má
cho ba, để có thể giúp đỡ cho ngoại và các cậu vì sau khi ông ngoại mất nhà rất
nghèo.
Má tuyệt thực ,
giả chết với sự giúp đỡ của cậu mợ Đức tôi nhưng cũng không che mắt và thắng
được ngoại và phải ưng ba. Dù sống với ba không có tình yêu nhưng lúc nào Má
cũng chung thủy và làm đầy đủ bổn phận của một người vợ, người mẹ hiền.
Khi má dẫn chúng tôi ra nước ngoài (ba tôi
không đi vì lý do riêng). Vài năm thì nghe tin ba mất ở VN nhưng má vẫn ở vậy
thờ ba cho đến giờ ( dù khi mới qua Mỹ nhiều người thương cái nết na của má và
muốn cưới mà má không chịu vì thương con)…
Lúc còn sống ông
bà nội và ba tôi vẫn khen má tôi là người “Con Dâu Tốt, Người Vợ tuyệt vời”.
Chúng tôi, các con của má cũng nhận thấy quá đúng, không ai thương con, hi sinh
nhiều cho con như má tôi …Dùng danh vị :” Người Mẹ Tuyệt Vời “cho Má tôi không
sai chút nào.Tôi luôn tự hào vì mẹ tôi mà nói : “ Đi khắp thế gian không ai tốt
bằng… Mẹ tôi ”
“Một mình, mẹ làm
tất cả
Bao nhiêu công
việc trong nhà
Chịu đựng, âm
thầm…vất vả
Không hề than
thở kêu ca” (*)
Làm mẹ của 13
đứa con, má tôi cực khổ không bút nào tả xiết. Là đứa con thứ nhì nhưng là con
gái lớn nhất trong gia đình,( em gái kế Ngọc Dung cách tôi một con giáp) nên tôi
đã thấy cái khổ của má và giúp má rất nhiều trong việc chăm sóc các em. Nuôi má
trong bệnh viện mỗi lần má sinh em bé mới .
Gia đình tôi có
hai tiệm thuốc Bắc Dũ Hòa, một ở Phù Mỹ do ba tôi làm chủ, tiệm thứ hai ở Qui
Nhơn do má tôi trông coi. Ngoài việc đứng bán tiệm, cân thuốc, làm thuốc má tôi
còn phải làm đầy đủ bổn phận của một người mẹ như chăm sóc con, đi chợ, nấu ăn,
giặt giũ. Mỗi buổi sáng sớm, má chùi tro hàng đống chén trà dơ dùng để mời
khách uống. Má nấu thức ăn sáng cho cả nhà, đánh thức các em dậy, rửa mặt, thay
quần áo, cho các em ăn sáng. Buổi trưa má đi chợ, nấu ăn trưa cho cả nhà trên
15 người. Chiều về cũng làm những việc tương tự nhưng thêm là phải sắp hàng hơn
chục đứa con dùng gàu múc nước giếng tắm, kỳ cọ từng đứa, thay quần áo cho các
con. Tối đến má ru các em ngủ. Hàng
ngày, má giặt mấy thau quần áo dơ to tổ bố bằng nước giếng xách, chưa kể giặt
thêm thau tả của một, hai em nhỏ nhất. Thời đó đâu có máy giặt hay tả diaper dùng một lần rồi bỏ như
bây giờ. Việt Nam mình khí hậu nóng bức, bụi bặm, các em tôi chơi vọc đất cát
rất dơ nên mỗi lần giặt áo cho các em ngoài bâu áo, cổ áo, má và tôi phải chà
mạnh tay áo muốn “gãy” tay mới sạch. Nấu ăn cho vừa miệng ba và các con, hay
giặt đồ cho sạch thường phải chính má hay tôi làm chứ người làm không bao giờ
làm tốt. Ngọc Dung là đứa em cưng mà tôi
cầu trời phật (?) mới có được vì trước đó tôi có 5 anh em trai mà chưa có em
gái để chơi chung. Dung bị bệnh ghẻ đầy mình chữa hoài không hết, má xức thuốc cho nó mỗi ngày và chăm sóc nó nhiều.
Phương Thảo bị bếp dầu đổ phựt cháy phỏng nặng má chăm sóc, bôi thuốc rất nhiều
ngày Những dịp nhà có giỗ, má nấu nhiều món ăn đãi họ hàng, Tết làm đủ thứ rim
mứt, bánh trái , thịt bò, heo, gà, vịt để đãi khách hàng, bà con trong tháng
Tết (vì nhà bán thuốc Bắc rất đông khách đến thăm) Ba má thích ăn bánh in nên
Tết nào má và tôi cũng làm thật nhiều chứa trong mấy thùng dầu hỏa. Thịt kho
tàu, thịt thưng đủ loại 4, 5 chảo lớn. Bánh chưng, bánh tét đầy nhà .Tôi nhớ
nhất là những kỷ niệm với má khi những ngày cận Tết ngồi canh nồi bánh chưng,
bánh tét nghe má kể các chuyện cổ tích
VN ,chuyện Tàu như chuyện: Ông Táo , bà Táo, sự tích Bánh dày, Bánh chưng, Hoa
Mộc Lan, Võ Tắc Thiên, Hai Bà Trưng, Bà Triệu ,Trọng Thủy, Mỵ Châu, Lạc Long
Quân và bà Âu cơ sinh ra 100 trứng v.v…( Sau này nhờ má thuyết phục ba, tôi mới
được làm cô giáo Việt và làm dâu “ Con Rồng cháu Tiên).
Má có cả một kho
tàng cổ tích mà kể hoài không hết. Là người Hoa má rất thích đọc sách Hoa lẫn
sách Việt, chắc nhờ vậy má giỏi tiếng Việt chăng ? Má không những giúp chúng
tôi làm bài ở trường mỗi ngày mà còn là thầy dạy ba tôi đọc thông, viết thạo
Việt Ngữ nữa. Ngoài nói và viết tiếng Hoa, tiếng Việt rành, má còn biết tiếng
Pháp và sau này má còn giỏi tiếng Anh nữa vì mỗi ngày, nhiều năm phải đi học
Anh ngữ mới được chính phủ Mỹ trợ cấp tiền nuôi con...
Thấy má quá vất
vả nên tôi giúp má mọi công việc trong gia đình. Chính nhờ được giúp má, được tôi
luyện trong một môi trường nhiều anh em nên sau này tôi rất thích trẻ em, làm
việc với trẻ em và trở thành một người vợ, một cô giáo tốt, dạy giỏi ở Canada, được
hiệu trưởng các trường, phụ huynh và các
em học sinh mến phục…
Má thường dạy
năm đứa con gái chúng tôi : Phụ nữ phải : Công- Dung- Ngôn – Hạnh…Chung thủy…
Má dạy chúng tôi
nhiều điều lắm nhất là chuyện tìm hiểu nam nữ trong việc xây dựng gia đình nên
sau này các chị em tôi từ Hàn Ngọc Dung, Phương Thảo, Thùy Linh, Mai Chi và tôi đứa nào cũng dè dặt tìm hiểu đối tượng ít nhất là 7 năm trở lên. ( Riêng tôi và ông xã hơn 11 năm mới
cưới nhau) Năm người con gái của má đều có chồng rất hạnh phúc. Không biết có
phải nhờ chúng tôi áp dụng đúng lời má dạy hay số phần của chúng tôi may mắn
???
Ai nuôi con cũng
biết, nếu con khỏe mạnh thì còn đỡ nếu con tật nguyền hay bệnh hoạn, những khi
“ trái nắng, trở trời “ thì cha mẹ khổ gấp bội.
“Thương
con thao thức bao đêm trường , con đà yên giấc mẹ hiền vui sướng biết bao…” bài Lòng mẹ của Y Vân có
nhiều câu thật đúng với lòng thương con của má tôi. Mỗi lần các em đau má phải
thức trắng đêm ngồi bên cạnh để chăm sóc, luôn tay quạt, hát ru con ngủ. Má hát
cả tiếng Hoa lẫn tiếng Việt và giọng hát rất ngọt ngào.
Má thường hát bài
: Cánh hồng Trung Quốc : Kìa một nàng
Trung Hoa , răng trắng tinh như là ngà…
Bài: Lòng mẹ, Ơn nghĩa sinh thành ,Khúc ca
ngày mùa …
Má hay đọc sách cho chúng tôi nghe khi ngủ ,hay
ầu ơ bài : “Chiều chiều ra đứng ngõ sau , ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều…”
Má khổ và đau buồn nhiều nhất là giai đoạn
những đứa em mủm mỉm , xinh đẹp như thiên thần của tôi : em Dũng, em Hạnh, em Út
mất vì bệnh nặng không cứu chữa được, Má
như đứt đi từng đoạn ruột, ốm đi hàng chục cân dạo đó.
..."Mẹ già như chuối chín cây..." |
Làm mẹ ai cũng
trải qua giai đoạn mang thai, sinh con đau biết là chừng nào. Sinh hai đứa con,
tôi đều được có chồng bên cạnh chia xẻ giây phút đó, nhưng tôi chưa bao giờ tôi
thấy ba kề cận bên má lúc sanh con. Ít nhất là 7 lần, người dẫn má đi sinh em
và nuôi má khi nằm ở bệnh viện, là tôi . Tôi còn nhớ khi má sinh Ngọc Dung đứa
em gái đầu tiên của tôi vào đêm trăng mười sáu. Dưới ánh trăng tròn vành vạnh,
tôi dắt má đi qua đi lại trước sân nhà hàng trăm lần vì má đau bụng không thể
nằm hay ngồi yên. Không dẫn đi thì phải vuốt lưng cho má đỡ đau hàng chục giờ.
Nhiều khi đau quá quên, má bấm tay tôi muốn chảy máu mà tôi ráng chịu đau không
dám rên… Má rất thích có con trai. Mỗi lần ngồi bên giường sinh, phụ má “rặn “
nhìn má mồ hôi nhễ nhại, mắt má đầm đìa nước mắt vì đau, tôi thấy tội má quá,
khóc theo và tự nhủ mai mốt lớn lên không thèm lấy chồng, sinh con.
Không biết tại sao má thích có con trai hơn
con gái (dù ba má có đến 8 trai, 5 gái không kể 1 em trai sinh non) Mỗi lần má
sinh mệt muốn đứt hơi mà nghe tiếng khóc đầu tiên của em bé má đều ráng ngóc
đầu lên nhìn và hỏi : “ con trai hay con gái ?“ nếu thấy “ thằng cu” má cười
mãn nguyện nếu em gái má nằm im. Có lẽ má sợ sinh con gái nó sẽ khổ như mình
chăng !?
Ba
má tôi có quá nhiều con, trái lại cô ba, chị kề ba tôi không có đứa con nào. Không biết bao nhiêu lần cô
dượng tôi năn nỉ má cho cô bớt vài đứa cho nhà cô đỡ hiu quạnh và thừa kế gia
tài của cô dượng khi về già, nhưng má thương con nhất định không chia cho cô
đứa nào. Phải chi cô nghèo hay ở xa, má sợ con nghèo đói thì không nói gì, đằng
này nhà cô cũng bán thuốc Bắc, giàu hơn nhà tôi và cô cũng ở cùng một con
đường, chỉ cách nhà tôi vài chục căn.
Khổ về con chưa
đủ ,má tôi còn khổ vì em chồng. Về làm dâu ông bà nội không lâu má tôi phải
nuôi bốn người em chồng: Cô Thâu, cô Phụng, cô Hiệp, chú Thọ vì ông bà mất sớm.
Nghe mọi người kể lúc đó chú Thọ, chú út của tôi còn nhỏ lắm, chú thường nằm
chung nôi với anh Lộc, anh đầu của tôi. Thương và chăm sóc em chồng nhỏ như con
ruột, nên chú thương chị dâu cũng như mẹ. Má tôi phải chịu không biết bao nhiêu
khổ nhọc, để cùng ba tôi nuôi bầy em chồng khôn lớn rồi gả chồng cho từng người. Những tưởng gả
chồng xong cho các cô là hết bổn phận để có thể rảnh tay nuôi bầy con đông đảo
của chính mình. Không ngờ các cô lấy chồng nghèo và làm ăn cứ thất bại liên miên
nên má tôi phải giúp các cô từ lần này đến lần khác. Bực mình, có khi các cô
đến nhà xin xỏ, ba đuổi cửa trước thì má tôi
rước vào cửa sau, dấu ba tôi giúp
các cô vốn liếng làm ăn, cho gạo, tiền. Má đối xử tốt với tất cả hàng xóm, láng
giềng và bên chồng nhưng cũng không tránh khỏi bị một vài em chồng nhỏ to nói
xấu, hành hạ, như cô Phụng. Má không để bụng sau này qua Mỹ dù ban đầu không dư
giả, má cũng thường xuyên gởi tiền về cho cô, cho đến khi cô mất cách đây mấy
năm. Có điều má tôi cũng được an ủi phần nào là cô Hiệp và chú Út tôi biết ơn
nên thương, không hùa theo các chị ăn hiếp má, và cô Hiệp có giúp đỡ má chăm
sóc chúng tôi khi cô còn độc thân.
Là người Hải Nam,Trung
Hoa ba má tôi sinh sống bằng nghề bán thuốc Bắc cũng khá giả nhưng sau năm 1975 trong việc đánh đổ “ Tư sản mại bản “ ba phải
ở tù …má lại phải lặn lội thân cò nuôi chồng và lo cho chồng …
Má muốn dẫn con
ra nước ngoài với cậu, chú tôi ở New
York nhưng ba không bằng lòng. Không thể lay chuyển được ba, nghĩ đến tương lai
mù mịt của các con má tôi âm thầm một mình suy tính, nhưng làm cách nào? Làm
sao có đủ vàng để lo đi ? và làm sao má dẫn hết một bầy con đông đảo như gia
đình tôi đi? Đó là một bài toán khó má không làm sao giải được? Má tôi càng ngày một gầy hơn và nếp nhăn trên trán
mỗi ngày một sâu hơn. Chúng tôi sống lây lất qua ngày trong vô vọng như bao
nhiêu người Việt khác lúc bấy giờ.
Rồi năm 1978
chính quyền cho phép người Hoa chúng tôi ra đi . Má tôi lại phải một phen cực
khổ đi vay mượn tất cả bà con, bạn bè, bán hết tất cả những gì có trong nhà để
có thể đóng đủ vàng cho tất cả gia đình 14
người vượt biển bằng tàu sau khi đã hiến hai căn nhà . Ra đi mà má và
chúng tôi dầm dề nước mắt “ Thôi nhé giã
từ ba ! giã từ thành phố biển QN, giã từ trường cũ với một thời áo trắng mộng
mơ, bạn bè, học trò , tình yêu đầu đời trẻ dại, giã từ quê hương yêu dấu”, tôi
thầm thì trong màn lệ. Ngước mắt nhìn trời cao và nước biển mênh mông tôi nhớ
lại một bài thơ ông xã tôi đã tặng :
Nơi chân trời
mây bạc,
Lơ lững cánh
chim bay.
Đơn chiếc bay về
đâu ?
Về chân trời góc
bể ?
Nơi góc bể mờ
sương
Một con thuyền
lơ lững,
Đang trôi dạt
mông lung
Trong buồng
sương buốt lạnh
…………………………….
Với nỗi lòng xa
cố quốc…
Má và tôi thẫn
thờ, lo lắng: thuyền chúng tôi có đến nơi được an toàn không? có bị hải tặc
cướp bóc, hãm hiếp không? có bị sóng gió đánh tan tành không? Chiếc thuyền nhỏ
mong manh của chúng tôi thay vì chứa năm, ba chục người họ nhét đến 154 người.
Thuyền khởi hành vào tháng 9 mùa biển động, bão lớn chúng tôi gặp nhiều hiểm
nguy trùng trùng trong suốt cuộc hành trình 30 ngày thay vì 3 ngày như dự định.
Thức ăn, nước uống mang theo chỉ đủ 3 ngày hay nhiều lắm là 1 tuần. Ai trên
thuyền cũng bị say sóng ói mửa tới mật xanh, mật vàng nhưng Má và tôi vẫn phải
gắng gượng chăm sóc các em, đói cơm , khát nước má phải ráng nhịn cho các con,
hi sinh mọi thứ để tất cả các con được an toàn. Trải qua bao nhiêu sóng gió
hiểm nguy, may mắn thay cuối cùng má đã bảo bọc cho các em tôi qua được Hồng
Kông rồi định cư ở New York dưới sự bảo lãnh của cậu tôi. Phần tôi tuy chung
một danh sách bão lãnh với má và các em nhưng số phận đưa đẩy qua Canada thay
vì Mỹ…
“ Mẹ tôi dạn dày mưa nắng
Quên mình trong bể trầm luân
Vun đắp bầy con khôn lớn
Mặc tình bao nỗi gian truân.” (*)
Một mình không
biết một chữ tiếng nước người, nuôi một bầy con dại ở New York city, một thành
phố văn minh bậc nhất nhì ở Bắc Mỹ nhưng cũng nổi tiếng là hỗn tạp, nhiều tội ác, trộm cắp… Má tôi đã
chịu không biết bao nhiêu gian lao, khổ nhọc lúc ban đầu để nuôi con. Cánh tay
phải của má là tôi lại lưu lạc ở Canada thay vì ở bên cạnh để chia sớt với
người. Ba năm đầu chưa nhập tịch Canada tôi không thể qua thăm. Tôi thương nhớ má
và các em vô vàn. Đêm nào cũng thao thức, mỗi lần ăn cơm là chan nước mắt khi
nhớ lại những bữa ăn đông đảo, vui nhộn, đầm ấm ngày xưa. Mỗi lần phải lặn lội
trong tuyết để gởi con trước khi đi làm
hay dắt con đi học tôi lại nhớ má và không biết má có chịu nổi cái lạnh âm 20,
30 độ vào mùa Đông bên đó không ? Làm sao buổi sáng hay chiều má có thể đưa đón
hàng chục đứa em đi học ? Ai sẽ giúp các em làm homework ở nhà nếu má không
biết tiếng Anh ? Ngọc Dung thường gởi thư “báo cáo” tình hình bên NY nếu tôi
không phôn qua. Nhiều lần nó tâm sự : “Em nản quá chị P. ơi ! ngày nào vô lớp
học em cũng không hiểu cô, thầy dạy nói gì ? nên em viết thư cho chị thay vì
viết bài. Tháng này, tháng kia sinh nhật
của Thảo, của Linh, má không có tiền mua
quà cho nó nên má phải nhận quần áo về cắt chỉ để thêm thu nhập”… Khi đã chính
thức trở thành công dân Gia Nã Đại việc
đầu tiên của tôi là bay qua thăm má và các em. Tôi không cầm được nước mắt khi
thấy má mỗi tối phải thức thật khuya đến 1, 2 giờ sáng ngồi ráp bông tai , đập, ráp ống son môi mỗi
thùng hàng ngàn cái mà chỉ được trả 10, 20 đô…
Thật ra là “single
mother” má tôi được chính phủ cho tiền ăn, tiền nhà và quần áo cũ của các cơ
quan từ thiện cũng tạm đủ ăn, đủ mặc nhưng muốn có thêm tiền giúp đỡ các cô, bà
con ở quê nhà , hoặc muốn sắm thêm cái áo ấm, đôi giày bốt mới chống lạnh … cho
các con má tôi phải nhận đồ thêm ở các hãng xưởng về nhà làm với giá rất rẻ
mạt…Mỗi lần má hay các em bệnh hoạn phải đi bác sĩ, phải liên lạc với nhà
trường vì việc học của các con, vì các em bị tụi Mỹ kỳ thị, hiếp đáp má tôi rất
khổ tâm vì không rành tiếng Anh…Bên cạnh má còn rất cô đơn và thiếu thốn tình
yêu của ba vì không liên lạc với chồng…
Đó chỉ là một vài cái khổ mà tôi đã thấy mỗi lần viếng thăm, má còn khổ
và hi sinh cho con nhiều thứ nữa mà ở xa tôi không biết được, mà có biết cũng
làm sao giúp được vì cuộc đời lưu vong của tôi cũng khốn khổ gần như má.
Vậy mà, thời gian như một phép lạ ! Má tôi đã
vượt qua mọi khó khăn, trở ngại nuôi tất cả các con khôn lớn thành tài, trở
thành những công dân tốt của nước Mỹ
giữa thành phố New York, ở khu da đen, nơi nổi tiếng về đầu trộm, đuôi cướp, sì
ke ma túy, đĩ điếm …gần như bậc nhất trên thế giới. Hai đứa em nhỏ nhất lúc ra
đi mới 3 , 4 tuổi là hai em mà má lo cho tương lai tụi nó nhất là Mai Chi đã thành Dược sĩ, còn út Huê Định đã trở
thành Kiến trúc sư.
“Lòng mẹ bao la
bát ngát,
Thương con rộng
tựa biển khơi.
Ơn dày biết sao
đền đáp ?
Đêm ngày ray rức
trong tôi.” (*)
Chúng tôi có được ngày hôm nay là nhờ công
ơn của má. Chúng con rất biết ơn, kính yêu má ! Cám ơn má ,“ Người Mẹ Tuyệt Vời
Của chúng con’”
“Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu,
Công cha như núi Thái sơn , nghĩa mẹ như nước trong
nguồn chảy ra…”
Bài hát ” Ơn
nghĩa sinh thành” năm nao má tôi hát cho chúng tôi nghe vẫn còn vang vọng bên
tai tôi. Mỗi năm khi dạy các Lớp Việt Ngữ ở Canada về chủ đề: “Gia đình”, chủ
đề : “Mẹ”, tôi vẫn thường dạy học trò và con tôi hát bài này khi có dịp…
Tiếng người tiếp
viên hàng không loan báo phi cơ sắp hạ cánh xuống phi trường LaGuardia, New
York đưa tôi về thực tại… Nhìn những đám mây trắng, bạc trở nên vàng dưới ánh
nắng chiều, rồi trở thành xám, đen trong hoàng hôn, trong đêm tối theo lẽ tuần
hoàn của trời đất . Đời người cũng vậy : sinh, lão, bệnh, rồi...tử. Vẫn biết
thế nhưng sao tôi vẫn muốn má sống hoài với chúng tôi. Mỗi lần lễ Vu Lan các
chùa bên này tổ chức tôi thường đưa các con tham dự và sung sướng được cài một
bông màu hồng lên áo.( tôi vẫn còn giữ hơn ba chục hoa vải lẫn hoa thật đã khô)
.Bây giờ má tôi đã bắt đầu khó tánh và hay mè nheo con cái vì lẫn (?) vì tủi
phận mình, vì các con đã đủ lông cánh lần lượt bỏ mẹ bay đi... Chợt nghĩ đến
tuổi già, bệnh hoạn của má mà tôi lo lắng …
“ Mẹ già như chuối chín cây,
Gió lay Mẹ rụng , con phải mồ côi.”
Các em ơi ! Hãy
nhớ mẹ đã ban cho chúng ta tấm hình hài này, đã hi sinh rất nhiều cho chúng ta,
nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn với muôn vàn khổ cực… Hãy thương mẹ, hãy ôm mẹ và
nói thương mẹ như khi ta còn bé. Đừng trách mẹ khi mẹ già lú lẫn, làm phiền hay
trách móc các em những điều gì đó không đúng. Hãy làm những gì có thể làm được
khi mẹ còn sống. Đừng để người mất đi
rồi mới hối tiếc thì đã muộn. Lúc đó, mâm cao, cỗ đầy cúng kiến thì cũng chẳng
ích lợi gì…
Xin mượn câu
cuối của một bài thơ mà tôi đã đọc được đâu đó trong một ngôi chùa để kết thúc
bài viết, để nhắn nhủ các anh em tôi và những ai còn mẹ :
“Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ khóc ,
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghe không !”
Toronto , Canada mùa Vu Lan 2012
Hàn Diệu Phương
(*) Mẹ tôi – Thầy Trần Văn Dật
BBT: Nhân bài viết về Mẹ của HDP, và mùa Vu Lan đang đến... BBT xin gởi tặng tất cả những Người Mẹ - là bạn đọc của trang này một nhạc phẩm của Nguyễn văn Chung qua tiếng hát của Hiền Thục... và xin chúc cho chúng ta luôn mãi... còn Mẹ.
BBT: Nhân bài viết về Mẹ của HDP, và mùa Vu Lan đang đến... BBT xin gởi tặng tất cả những Người Mẹ - là bạn đọc của trang này một nhạc phẩm của Nguyễn văn Chung qua tiếng hát của Hiền Thục... và xin chúc cho chúng ta luôn mãi... còn Mẹ.